BOOK OPEN OUR MIND
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


YOU READ THEM-YOU LOVE THEM-AND YOU VOLUNTEER TO DIE FOR THEM!!!
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ

Go down 
Tác giảThông điệp
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 10:27 am

Tác phẩm: Trăm Năm Cô Đơn.

Author: Gabriel Garcia Marquez
Status: đang post

source:www.vnthuquan.net


Chương 1

Rất nhiều năm sau này, trước đội hành hình, đại tá Aurêlianô Buênđya đã nhớ lại buổi chiều xa xưa ấy, cái buổi chiều cha chàng dẫn chàng đi xem nước đá. Thời ấy Macônđô là một làng gồm vài chục nóc nhà tranh vách đất dựng bên bờ con sông nước trong như pha lê, ào ào chảy qua những tảng đá nhẵn thín, trắng bong, to như những quả trứng thời tiền sử. Thế giới lúc ấy còn ở buổi hồng hoang, chưa có tên gọi các đồ vật và để gọi chúng cần phải dùng ngón tay chỉ đích vào từng cái một. Cứ vào tháng ba hàng năm, một gia đình digan rách rưới dựng một túp lều bạt ngay cạnh lâng, rồi với tiếng kèn trống om xòm quảng cáo những phát minh mới. Ðầu tiên, họ mang tới đá nam châm. Một người digan lực lưỡng, hàm râu lởm chởm,. bàn tay lông lá, tự giới thiệu mình tên là Menkyađêt, làm ngay một thí nghiệm kinh rợn trước công chúng về cái mà chính ông ta gọi là kỳ quan thứ tám của các thuật sĩ luyện đá giả kim uyên bác xứ Maxêđoan. Từ nhà này sang nhà khác ông ta kéo hai thỏi kim loại đã nhiễm từ, và thế gian kinh ngạc khi nhìn thấy xanh, chảo, vạc, kìm, bếp lò rơi đổ ngổn ngang, đồ gỗ kêu cọt kẹt bởi đinh, ốc vít đang như muốn tuột ra khỏi chúng, và hơn nữa, những vật bằng sắt bị mất từ lâu bỗng lại ló ra ở ngay nơi chủ nó từng mất công tìm kiếm.
Rồi sau đó, mọi người bị lôi cuốn đổ ra đường, lũ lượt, ồn ĩ theo sau những trò ảo thuật đầy thích thú của Menkyađêt. "Mỗi một vật đều có cuộc sống", người digan quảng cáo với giọng lanh lảnh, "vấn đề là ở chỗ biết đánh thức tâm hồn nó". Hôsê Accađiô Buênđya, người có trí tưởng tượng thường đi xa hơn cả bản thể của giới tự nhiên và còn vượt quá rất xa những phép màu và trò huyền ảo, nghĩ rằng có thể sử dụng phát minh vô bổ ấy vào việc moi vàng từ trong lòng đất. Menkyađêt, vốn là người cao thượng, nói trước cho ông biết: "Ðồ này không dùng vào việc ấy được" Nhưng Hôsê Accađiô Buênđya lúc ấy vẫn không tin đức tính cao thượng của người dân digan, vì vậy đã đổi ngay một con lừa và một cặp dê đực để lấy hai thanh nam châm. Ucsula Igoaran, vợ ông, từng nghĩ tới việc dùng những gia súc này vào việc mở rộng ngôi nhà ở của họ vốn dĩ tồi tàn, đã không thuyết phục được ông. "Ôi dà, rồi chúng ta sẽ có ối vàng để xây nhà, lo gì mình ơi", ông cãi lại. Trong vài tháng liền, ông trần lưng làm việc để biến những dự đoán của mình thành hiện thực. ông đào bới cặn kẽ khắp vùng, kể cả dưới lòng sông, rồi kéo rê hai thanh nam châm, khấn rõ to lời cầu nguyện của Menkyađêt. Vật duy nhất mà ông đào bới được là một bộ giáp trụ từ thế kỷ XV, bị lớp han rỉ phủ kín, bên trong như một quả bí khổng lồ chứa đầy đá Khi Hôsê Accađiô Buênđya và bốn người đàn ông trong đội khai quật của mình tháo rời được bộ giáp trụ này, họ thấy một bộ xương người đã hoá vôi, cổ còn lủng lẳng đeo một hộp thánh tích bằng đồng đựng mớ tóc phụ nữ.

Những người digan trở lại làng vào tháng ba. Lần này họ mang theo một kính viễn vọng và một kính lúp có mặt gương to bằng mặt trống, họ trưng bày chúng như thể trưng bày phát kiến mới nhất của những người Do thái ở Amtecđam. Họ cho một cô digan ngồi ở đầu làng và đặt cái kính viễn vọng ở ngay cửa vào của túp lều bạt. Sau khi trả năm đồng rêan, dân chúng ghé mắt vào kính viễn vọng và họ nhìn thấy cô digan ở ngay trong tầm tay mình. "Khoa học đã rút ngắn khoảng cách", Menkyađêt quảng cáo: "Chẳng bao lâu, không cần phải ra khỏi nhà mình, con người đã có thể biết được bất kỳ điều gì xảy ra trên trái đất". Một buổi trưa nóng bỏng, bọn họ làm một thử nghiệm khủng khiếp bằng chiếc kính lúp khổng lồ: chồng một đống cỏ khô ở giữa đường rồi lấy kỉnh lúp chiếu tia mặt trời vào, thế là cả đống cỏ bùng cháy. Hôsê Accađiô Buênđya, người vẫn chưa nguôi buồn về sự thất bại của việc dùng nam châm tìm vàng, lại nẩy ra ý định sử dụng phát minh ấy như một thứ vũ khí. Một lần nữa, Menkyađêt lại khuyên can ông. Nhưng rồi chính Menkyađêt phải nhận lại hai thanh nam châm và nhận thêm ba đồng tiền thời thuộc địa để đổi cho Hôsê Accađiô Buênđya chiếc kính lúp. Ucsula khóc lóc thảm thiết. Số tiền ấy là một phần của túi tiền vàng mà cha bà đã tích cóp trong suốt cuộc đời ăn đói mặc rách và bà đã chôn chúng dưới gẩm giường chờ dịp cần thiết mới tiêu đến. Hôsê Accađiô Buênđya, ngay đến an ủi vợ cũng không có ý định, đã vội dốc toàn lực vào những việc thí nghiệm với đam mê của một nhà khoa học và hơn thế nữa còn dấn thân vào những nguy hiểm chết người. Ðể làm rõ hiệu quả của kính lúp đối với quân địch, chính ông đã tự mình đứng ngay vào vùng ánh sáng là nơi kính lúp đã hội tụ tia nhiệt mặt trời, và ông bị bỏng, những vết bỏng này trở thành ung nhọt phải mất nhiều thời gian mới chữa lành. Suýt nữa ông đốt nhà vì không thể chịu nổi những lời rỉa rói của bà vợ, người từng cảnh giác trước nỗi nguy hiểm của phát minh này. ông ở lỳ trong phòng mình nhiều giờ liền, tính toán-về những khả năng chiến lược của thứ vũ khí mới sáng chế, cho đến khi ông viết được một bản chỉ dẫn mạch lạc có tính sư phạm và đầy sức thuyết phục. ông gửi nó cho nhà chức trách, có kèm nhiều bằng chứng của kinh nghiệm bản thân và vài bản vẽ thuyết trình. Ông giao nó cho một sứ giả mang đi. Người này đi xuyên rừng, bị lạc trong đầm lầy đáng sợ, vượt qua những con sông cuộn sóng, suýt nữa thì mất mạng vì thú dữ, vì thất vọng và dịch bệnh, trước khi tìm thấy con đường mà những con lừa của người đưa thư vẫn qua lại. Mặc dù đường đi đến thủ đô thời ấy là rất khó khăn, Hôsê Accađiô Buênđya đã dự định sẽ chế tạo rất nhanh thứ vũ khí này nếu như chính phủ ra lệnh thử nó ngay trước mặt các nhà quân sự và ông sẽ đích thân hướng dẫn cho họ về nghệ thuật phức tạp của chiến tranh sử dụng năng lượng mặt trời. Trong nhiều năm liền ông chờ đợi thư phúc đáp của chính phủ. Cuối cùng, chán chường vì chờ đợi, ông đành phải than phiền với Menkyađêt về sự thất bại của công việc vừa ở bước khởi đầu. Vậy là người digan lại có dịp bày tỏ tư chất cao thượng của mình: trả lại ông những đồng tiền đôblông để lấy lại chiếc kính lúp ngoài ra còn để lại một số tấm bản đồ của người Bồ Ðào Nha, và một vài dụng cụ đi biển. Tự tay mình, Menkyađêt còn viết một bản tổng kết chặt chẽ về những nghiên cứu của thày tu Hecman, rồi đặt vào vị trí của nó để ông có thể sử dụng kính thiên văn, la bàn và thước đo góc 60 độ. Trong những năm tháng mưa dài lê thê, Hôsê Accađiô Buênđya ở lỳ trong cái phòng nhỏ làm ở cuối nhà để không một ai quấy rầy mình trong lúc làm thí nghiệm. Nhờ hoàn toàn bỏ thói quen ăn, ngủ đúng giờ, ông ở ngoài sân suốt đêm để theo dõi đường đi của các vì sao và suýt nửa mắc bệnh đau đầu vì ý muốn xây dựng một phương pháp chính xác để tìm phương Nam. Khi đã thành thạo sử dụng và điều khiển các dụng cụ, ông có ý niệm về một khoảng không gian mênh mông cho phép ông đi thuyền trên những biển xa lạ, đến những miền đất hoang vu không bóng người và kết bạn với những người hiển hách mà không cần phải ra khỏi bàn làm việc của mình. Ðấy là thời kỳ ông mắc tật nói một mình, đi dạo khắp nhà chẳng để ý tới ai trong lúc Ucsula và bọn nhóc nhổ cỏ trong vườn, chăm bón chuối và khoai sọ sắn và củ từ, bí ngô và cà dái dê. Không một dấu hiệu báo trước nào, bỗng nhiên ông ngừng mọi hoạt động sôi nổi để chìm đắm trong suy tưởng. Vài ngày liền, ông cứ như người bị bỏ bùa mê, giọng thì thầm nhắc đi nhắc lại cho chính mình nghe hàng loạt những phỏng đoán đầy kinh ngạc mà ông không cần tin vào sự hiểu biết của chính mình. Cuối cùng, vào giờ ăn trưa, một ngày thứ ba tháng chạp, ông xổ tung tất cả nỗi căng thẳng trong tâm tưởng mình. Bọn trẻ cả đời sẽ nhớ mãi vẻ trang trọng của cha chúng khi ông ngồi vào đầu bàn, người run rẩy lên cơn sốt, gầy rộc đi vì công việc quan sát kéo dài và vì lòng chua xót bởi trí tưởng tượng. ông đã công bố cho chúng biết phát kiến của mình: "Trái đất tròn như thể quả cam ấy?
Bà Ucsula không chịu được nữa. "Nếu ông có điên thì một mình ông điên thôi", bà gào, "nhưng xin ông chớ có nhồi sọ bọn trẻ những ý nghĩ bông lông của mình nhét . Hôsê Accađiô Buênđya lặng thinh, không để cho mình sợ hãi trước cơn thất vọng của bà vợ mà trong lúc bực mình bà đã quẳng kính thiên văn xuống sàn nhà làm nó vỡ toang. ông làm cái khác và tụ tập những người đàn ông trong làng ở ngay trong phòng nhỏ rồi bằng thứ lý thuyết khó hiểu đối với bọn người này ông đã chứng minh cho họ thấy khả năng trở lại điểm xuất phát ban đầu nếu cứ nhằm hướng đông cho tàu thuyền chạy. Cả làng đều nhất loạt đồng ý với nhau rằng Hôsê Accađiô Buênđya đã mất trí.
Giữa lúc ấy, Menkyađêt trở lại để dàn xếp mọi việc. ông công khai biểu dương trí thông minh của con người bằng việc đơn thuần nghiên cứu thiên văn, đã xây dựng được một lý thuyết từng được công nhận trong thực tiễn mặc dù cho đến lúc ấy ở làng Macônđô vẫn chưa ai biết tới, và để bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình ông đã tặng lại Hôsê Accađiô Buênđya một phòng thí nghiệm giả kim, một kỷ vật sẽ gây ảnh hưởng quyết định đối với tương lai của làng này.
Vào thời ấy, Menkyađêt già đi nhanh đến mức ai cũng phải ngạc nhiên. Trong những chuyến đẩu tiên đến làng này hầu như ông cùng trạc tuổi với Hôsê Accađiô Buênđya. Nhưng trong lúc ông này vẫn giữ được sức khoẻ vâm váp của mình, cái sức chỉ cầm hai tai con ngựa có thể quật ngã nó, thì người digan dường như đã bị suy nhược bởi những đau đớn khủng khiếp. Thực ra đó là hậu quả của rất nhiều thứ bệnh lạ lùng do ông nhiễm phải trong những chuyến du lịch vòng quanh thế giới.
Theo như chính lời ông kể với Hôsê Accađiô Buênđya trong lúc giúp ông này dựng phòng thí nghiệm thì thần chết đuổi theo ông khắp miền, nó cứ đánh hơi ống quần ông mà theo riết nhưng vẫn không túm được ông. Cuộc đời ông là cả một cuộc trốn chạy trước không biết bao nhiêu thứ tai ương và hoạn nạn đã giống xuống đầu cái giống người. ông qua khỏi bệnh phong ở Ba Tư, bệnh hoại huyết ở quần đảo Malaixia, bệnh hủi ở Alêchgiăng, bệnh phù thũng ở Nhật Bản, bệnh dịch hạch ở đảo Mađagaxca, nạn động đất ở Xixin và nạn đắm tàu xảy ra thường ngày ở eo biển Magadanêt(1). Cái con người kỳ vĩ đó, người từng nói rằng mình nắm được các bí quyết. của Nôstrađam(2), là một người mang vẻ buồn rầu, bởi mặt trời buồn bao quanh ông, với con mắt Á châu dường như đã biết được mặt trái của sự vật. ông dùng một chiếc mũ rộng vành màu đen nom như cánh quạ xoè và một chiếc áo nỉ khoác ngoài bị rêu xanh hàng thế kỷ phủ lên. Nhưng dù có sức hiểu biết quảng bác là thế và có môi trường hoạt động bí hiểm là thế, ông vẫn có một tư chất người, một tư chất thế tức, là cái làm cho ông gắn bó với những vấn đề nhỏ nhặt của cuộc sống thường ngày: ông than vãn về những mệt mỏi của tuổi già, do phải chịu đựng hoàn cảnh kinh tế túng thiếu, và từ lâu ông không mỉm cười vì bệnh hoại huyết đã nhổ hết răng. Hôsê Accađiô Buênđya hiểu rõ rằng cái buổi trưa ngột ngạt Menkyađêt đã bộc bạch những chuyện riêng tư của đời mình mãi mãi sẽ là
ngọn nguồn của một tình bạn vĩ đại. Bọn trẻ đầy thán phục trước những câu chuyện huyền thoại của ông. Aurêlianô, lúc ấy chưa quá năm tuổi, sẽ phải nhớ suốt đời hình ảnh Menkyađêt mà cậu đã được nhìn thấy: ông ngồi để cho ánh sáng chói chang trắng bạc từ cửa sổ chiếu vào mặt, trong lúc mồ hôi ròng ròng chảy trên hai thái dương và với giọng nói trầm vang của cây. đại phong cầm ông đã rọi ánh sáng vào những miền tối tăm nhất của trì tưởng tượng. Hôsê Accađiô, ông anh cậu có lẽ sẽ di lại cho con cháu mình cái hình ảnh kỳ diệu ấy như di lại một kỷ vật truyền đời. Trái lại, Ucsula lại giữ mãi kỷ niệm xấu về chuyến thăm viếng ấy, bởi vì bà bước vào phòng đúng lúc Menkyađêt do đãng trí đã làm vỡ một chai thuỷ ngân.
- Ðó là mùi của quỷ dữ phải không? - bà hỏi.
- Hoàn toàn không phải, - Menkyađêt bào chữa. - Người ta xác minh rằng quỷ dữ có mìn diêm sinh còn thứ này chẳng qua chỉ có mùi thuỷ ngân thôi, bà ạ!

Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 10:31 am

Lúc nào cũng với tác phong sư phạm, ông làm một cuộc trưng bày về những đặc tính quái đản của chất ngân sa, nhưng Ucsula chẳng hề để ý mà trái lại mang bọn trẻ đi cầu kinh. Cái mùi tử thần ấy, gắn rất chặt với kỷ niệm về Menkyađêt, sẽ mãi mãi lưu lại trong trí óc bà.
Phòng thí nghiệm thô sơ - chưa kể tới hàng lô chiếc phễu, bình thí nghiệm, bình lọc và những chiếc rây - bao gồm một bình cơ bản vốn là những bình thuỷ tinh cổ dài và hẹp mô phỏng theo hình chiếc bình giả kim và một nồi cất được người digan làm theo đúng mẫu miêu tả hiện đại của chiếc nồi cất có 3 cánh tay của bà Maria, người Do thái. Ngoài những thứ này Menkyađêt còn để lại bảy thứ kim loại tượng trưng cho bảy hành tinh, những hình mẫu về Moisê và Xôximo; một cục vàng giả và một cuốn sổ trong đó có những lời chỉ dẫn và hình vẽ miêu tả các quá trình của thuật giả kim vĩ đại, những thứ này cho phép người nào biết giảng giải chúng sẽ có ý định hành nghề chế tạo đá giả kim(3). Bị cách thức làm vàng giả tưởng như quá giản đơn này quyến rũ, trong vài tuần liền, Hôsê Accađiô Buênđya tán Ucsula cho mình đào số tiền vàng để nhân số vàng này lên gấp bội. Trước tính gàn của ông, Ucsula phải nhượng bộ chồng như trước đây vẫn nhượng bộ. Thế là Hôsê Accađiô Buênđya đổ ba mươi đồng đôblông vào chảo trộn lẫn chúng với bột đồng, bột diêm sinh và bột chì. Rồi ông để chúng trong một chảo sâu và đun cách thủy trên bếp lửa, cho tới khi chúng chảy ra biến thành một thứ nước xirô đặc quánh, nồng nặc mùi khét, giống kẹo cháy hơn là thứ vàng quý. Trong quá trình chưng cất vất vả đây thất vọng, thất hợp kim này cùng với bảy thứ kim loại tượng trưng cho bảy hành tinh được ngâm trong dung dịch thủy ngân đặc và muối sun phát, sau đó chúng lại được ngâm trong chảo mỡ lợn (vì không có dầu củ cải nên phải thay bằng mỡ lợn) để đun cách thuỷ trên bếp lửa. Cuối cùng, số vàng quý giá của Ucsula sau quá trình đun nấu công phu đã hoá thành một thứ giống như thứ cháo đặc sệt, cháy thành than, bết chặt lấy đáy chảo không tài nào gờ ra được.
Khi những người digan trở lại làng này, Ucsula đã cố ngăn dân làng không đi xem họ. Nhưng tính hiếu kỳ bao giờ cũng thắng nỗi sợ sệt, bởi vì hôm ấy, những người digan chạy đi khắp làng thổi kèn, khua trống inh ỏi, trong lúc người quảng cáo loan báo tin sẽ trưng bày thành tựu kỳ ảo nhất của những người Naxianxênô(4). Thế là cả làng đổ xô nhau đến lều của người digan. Trả một xu vào cửa, bọn họ nhìn thấy một Menkyađêt trẻ trung, khoẻ mạnh, da dẻ căng bóng, với hàm răng mới trắng bong. Những ai nhớ hàm răng móm mém vì bệnh hoại huyết, đôi mà tóp và đôi môi thâm xịt của ông sẽ phải rùng mình kinh ngạc trước thí nghiệm đầy sức thuyết phục về những khả năng siêu việt của người digan. Dân chúng chuyển từ trạng thái kinh ngạc đến trạng thái sợ hãi khi nhìn thấy Menkyađêt moi hàm răng ra, mới nguyên, được cắm trên hai lợi, rồi chìa cho mọi người xem trong một lát - trong giây lát thoáng qua ấy, Menkyađêt lại trở thành chính cái con người già lụ khụ của những năm trước đây - sau đó ông cắm chúng vào lợi rồi mỉm cười với tất cả sức trẻ trung vừa được khôi phục lại. Ngay đến cả Hôsê Accađiô Buênđya cũng phải thừa nhận rằng hiểu biết của Menkyađêt đã đạt tới những đỉnh cao quá sức tưởng tượng, nhưng rồi ông cảm thấy một niềm vui lành mạnh hơn khi người digan giải thích riêng cho ông về cách thức trồng răng giả. Điều đó khiến ông thấy vừa đơn giản vừa kỳ diệu, khiến cho ông, chỉ từ đêm đến sáng, mất ngay hứng thú trong việc nghiên cứu thuật giả kim; ông trở nên lầm lỳ khó tính và lại ăn uống thất thường, lại suốt ngày chỉ đi lại trong nhà. "Ngoài đường xảy ra biết bao điều kỳ lạ không thể tưởng được", ông nói với Ucsula.

"Ở bên kia sông, vâng, chính ở đó, có đủ loại máy móc kỳ diệu, trong khi đó chúng ta vẫn sống như những con lừa". Hết thảy những ai quen biết ông từ thuở mới lập làng Macônđô, đều ngạc nhiên thấy dưới ảnh hưởng của Menkyađêt ông đã thay đổi biết nhường nào.

Lúc đầu, Hôsê Accađiô Buênđya là một vị trưởng giả trẻ tuổi người vẫn thường dạy dân việc trồng cấy, khuyên nhủ cách nuôi dạy trẻ nhỏ và gia súc, cộng tác với mọi người, ngay cả trong công việc dùng đến sức mạnh cơ bắp, để đưa cuộc sống chung của làng đi lên, ngày một nhấm khá và yên bình hơn. Bởi vì ngôi nhà của ông ngay từ thuở ban đầu đã là ngôi nhà đẹp nhất làng còn những ngôi nhà khác đều được làm theo hình mẫu của nó: ngôi nhà có cửa ra vào rộng và sáng sủa, có một nhà ăn, làm theo kiểu hành lang vây xung quanh trồng hoa màu sắc sặc sỡ, có hai phòng ngủ, một cái sân rộng với cây dẻ khổng lồ, một vườn cây thẳng hàng và một vườn cỏ rộng mà ở đấy nào dê, nào lợn, nào gà sống thành bầy vui vẻ. Những con vật duy nhất bị cấm nuôi không chỉ ở trong nhà này mà ngay cả trong làng là những chú gà chọi.
Đức cần mẫn của Ucsula sánh ngang với đức cần mẫn của chồng mình. Bà năng nổ, mảnh khảnh, kiên nghị. Người đàn bà run rẩy mà chẳng một ai nghe thấy cất tiếng hát trong suốt cả cuộc đời mình, là người có mặt ở khắp chốn kể từ lúc trời vừa bừng sáng cho đến khi tối mịt, lúc nào cũng bận bịu với đàn gà kêu chíp chíp. Nhờ có bà, nền nhà đất nện không chút bụi, tường đất không vấy bẩn, bàn ghế giường tủ do chính bàn tay vợ chồng bà làm nên lúc nào cũng sạch sẽ, và những rương hòm cũ đựng quắn áo lúc nào cũng dịu thơm mùi húng dồi.

Hôsê Accađiô Buênđya, vốn là người tháo vát chưa từng có trong làng, đã bố trí các nhà theo hình thức sao cho từ mọi nhà đều có thể đi ra sông và không một nhà nào phải gánh nước vất vả hơn nhà nào, đánh những con đường chạy thật khéo để mọi nhà đều chịu nắng như nhau vào mùa nóng. Chỉ trong ít năm, Macônđô là một làng ngăn nắp gọn gàng và chuyên cần hơn bất kỳ làng nào trong số những làng được ba trăm cư dân ở đây biết tới cho đến lúc bấy giờ. Thực tế, đó là một làng hạnh phức, là nơi chưa một ai ngoài ba mươi tuổi, và chưa hề có người chết.

Kể từ những ngày lập làng, Hôsê Accađiô Buênđya đã làm bẫy và làm lồng chim. Chẳng bao lâu, không chỉ trong nhà ông mà trong tất cả các nhà của làng này đều đầy chim: nào chim tổ treo, chim hoàng yến, chim cổ đỏ, chim axulêhô. Tiếng chim tổ treo inh ỏi khiến Ucsula phải lấy sáp ong bịt lỗ tai lại để khỏi mất cảm giác thực. Khi những người digan thuộc bộ tộc của Menkyađêt đến đây lần đầu tiên để bán những viên thuốc đau đầu, thì mọi người lấy làm kinh ngạc nhận thấy bọn người này làm sao có thể tìm đến làng mình, một cái làng chìm trong hơi mù của đồng lầy, và những người digan thú nhận rằng họ đến được là nhờ tiếng chim hót dẫn đường.

Những tập tục tốt đẹp nhưng còn sơ đẳng ấy, trong thời gian ngắn bị cuốn tuột đi bởi cơn đam mê đá nam châm, bởi những tính toán thiên văn, bởi những mơ mộng biến chì thành vàng và bởi những thèm khát được biết những kỳ quan thế giới của Hôsê Accađiô Buênđya. Vốn là người hoạt bát và sạch sẽ, Hôsê Accađiô Buênđya đã trở thành một người lười nhác, ăn mặc thì lôi thôi lếch thếch, râu ria thì xồm xoàm đến mức Ucsula phải dùng con dao thái thịt cạo cho nó gọn lại. Không thiếu người cho rằng ông là nạn nhân của một thứ bùa yểm quái quỉ nào đó.

Nhưng những người tâm đầu ý hợp với cơn điên của ông đã bỏ công việc và gia đình để theo ông, khi ông đặt lên vai mình bộ đồ nghề thợ mộc và yêu cầu mọi người cùng giúp tay mở một con đường để làng Macônđô có thể giao tiếp với những phát minh lớn của loài người.
Hôsê Accađiô Buênđya hoàn toàn không hiểu địa lý của vùng này. ông biết rằng về hướng đông là dãy núi không thể vượt qua dược và ở phía bên kia dãy núi là thành phố cổ Riôacha, nơi trong những thời đã qua - theo như lời ông nội Aurêlianô Buênđya thứ nhất kể với ông - tên cướp biển Phrăngxit Đrăc rất ham mê môn thể thao dùng đại bác săn cá sấu sau đó lột da, nhồi rơm rồi đem chúng tiến dâng nữ hoàng Isaben. Trong thời trai trẻ của mình, ông cùng với những người bạn đã mang vợ, con cái, gia súc cùng nồi niêu bát ba vượt qua dãy núi này để tìm đương ra biển, nhưng sau hai mươi sáu tháng ròng rã, bọn họ đã phải bỏ cuộc và đành phải lập ra làng Macônđô để khỏi phải trở về chốn cũ. Đó là con đường ông không thích vì nó chỉ có thể dẫn ông trở lại thời quá vãng. Ở phía nam là những hồ nước phủ kín thứ rong bèo lâu đời và cả một thế giới đầm lầy rộng mênh mông mà theo như lời chứng của những người digan thì nó không có bờ bến. Đầm lầy mênh mông ấy biến mất về phía tây với một mặt nước trắng xóa trải đến nơi sắc nước lẫn vào màu trời, là nơi có bộ cá kình gồm những con vật có nước da mềm mại, có đầu và cổ của người phụ nữ. Với ma lực của bộ vú khổng lồ, chúng vẫn thường làm cho những người đi biển mất mạng. Những người dì gan phải mất sáu tháng trời đi thuyền trên con đường thuỷ ấy để cuối cùng gặp được một doi đất liền là nơi những con lừa của người đưa thư qua lại. Theo tính toán của Hôsê Accađiô Buênđya thì khả năng duy nhất để giao lưu với nền văn minh bên ngoài là con đường hướng bắc. Vậy là ông phân phát dỗ nghề thợ mộc và khí giới săn thú cho chính những người từng đi với ông trong chuyến đi tìm và thành lập làng Macônđô; rồi tự tay nhét la bàn, bản đồ vào ba lô và bắt đầu cú thám hiểm quá táo bạo này.
Trong những ngày đầu họ không gặp một trở ngại đáng kể nào. Họ men theo bờ đá lổn nhổn, đi ngược dòng sông cho tới nơi mấy năm trước từng đào được bộ giáp trụ thế kỷ XV, rồi từ đó họ theo con đường mòn len lỏi qua những cây cam dại đi sâu vào rừng rậm. Cuối tuần thứ nhất, họ giết và quay thịt một con nai, nhưng họ bảo nhau chỉ ăn một nửa, phần còn lại ướp muối dành cho những ngày sắp tới. Với tính toán thận trọng ấy, để duy trì cuộc thám hiểm, bọn họ ăn thịt vẹt đuôi dài, một thứ thịt xanh lè có vị hạc của xạ hương. Sau đó, khoảng hơn mười ngày liền, họ không được nhìn thấy mặt trời. Đất dưới chân họ lại ẩm thấp và nhão nhoét giống như tro tàn của núi lửa, và cây cối ngày một rậm rạp, hiểm hóc hơn, tiếng chim kêu vượn hú ngày một xa dần và quang cảnh lại trở nên mãi mãi buồn tẻ.
Những người trong đoàn thám hiểm cảm thấy buồn phiền vì những ký xe cổ xưa nhất của mình trỗi dậy trong cái thiên đường ẩm ướt và quạnh hiu này, cái thiên đường còn xa xưa hơn cả cái thiên đường ở đó giống người đã phạm tội tổ tông, là nơi ủng ngập sâu trong thứ nước bùn giống như dầu bốc hơi và những con dao rựa phải hạ xuống chém ngang thân những cây hoa loa kèn trắng và những chú kỳ nhông vàng ươm. Trong suốt cả một tuần, hầu như không ai mở miệng nói lấy một lời, với bộ ngực tức thở bởi thứ không khí khô nóng tanh mùi máu, bọn họ đi như những kẻ mắc chứng mộng du trong một thế giới ảm đạm, hầu như chỉ được soi sáng nhờ lùa đom đóm lập loè.
Họ không thể quay lui được vì con đường được mở ra theo dấu chân họ chẳng bao lâu đã bị thứ cây cỏ mới, lớn nhanh tưởng như nhìn thấy được, lấp mất lối. "Đừng sợ", Hôsê Accađiô Buênđya nói: "Cất nhất đừng để mất phương hướng". Không lúc nàn rời mắt khỏi la bàn, ông hướng đạo mọi người trong đoàn đi về phương bắc, cho tới khi họ ra tới một vùng đất thú vị. Đó là một đêm tối mịt mùng, không một vì sao, nhưng lại là một đêm thoáng đãng nhờ không khí mới mẻ và trong trẻo. Qua chuyến xuyên rừng dài ngày, mọi người đều mệt phờ vội đi mắc võng và lần đầu tiên trong hai tuần liền họ say sưa ngủ. Khi thức dậy, mặt trời đã lên cao. Họ đều hào hứng. Trước họ là một chiếc tàu Tây Ban Nha khổng lồ, màu trắng và bụi bậm, nổi lên giữa những cây dương xỉ và chà là trong ánh sáng ban mai dịu dàng.
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 10:40 am

Nó nằm nghiêng về mạn phải. Những mảnh buồm rách còn treo trên những cột buồm nguyên vẹn, nằm giữa những thừng chão có kết hoa nguyệt quế. Thân tàu, được lớp vẩy cá ép đã hoá đá và lớp rêu xanh phủ kín, hoàn toàn bị gắn chặt xuống nền đá.
Toàn bộ cấu trúc của nó dường như chiếm cứ cả một khung cảnh riêng, cái khung cảnh cô đơn và lãng quên, cái khung cảnh được bảo vệ trước sự phá phách của thời gian và chim chóc. Ở bên trong tàu mà những người thám hiểm đã khéo léo mở được cửa, không có gì khác hơn là một rừng hoa chen kín.
Việc bắt gặp con tàu này, dấu hiệu tỏ rằng biển đã gần kề, như một gáo nước lạnh dội vào ngọn lửa nhiệt tình của Hôsê Accađiô Buênđya. Ông cho rằng việc này như một lời nhạo báng cái số phận trớ trêu của mình: khi đi tìm biển, dù phải trả giá đắt với biết bao hì sinh và khó nhọc, thì không thấy, còn giờ đây không đi tìm thì lại thấy nó lù lù hiện ra trên con dường của mình như một trở ngại không thể nào vượt nổi. Rất nhiều năm sau, đại tá Aurêlianô Buênđya có dịp trở lại vùng này khi nó đã có một dường bưu điện bình thường, vật duy nhất của chiếc tàu ấy mà chàng bắt gặp là một mạn tàu cháy nham nhở nằm giữa cánh đồng hoa mỹ nhân thảo, chỉ đến lúc này, chàng nhận ra rằng cái câu chuyện ấy chẳng qua chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng của cha mình. Chàng tự hỏi làm sao con tàu ấy đã có thể tiến sâu vào cái địa điểm nằm ngay trên dết liền này.
Nhưng Hôsê Accađiô Buênđya không cần phải bận tâm như vậy khi mà sau bốn ngày đi bộ, ông đã gặp được biển cách chỗ con tàu khoảng mười hai kilômét. Những mơ ước của ông tan biến trước cái biển màu xám tro, ngầu bọt và bẩn tưởi, thật không bõ cái công ông đã khó nhọc trong chuyến mạo hiểm của mình.
- Con c…? - Ông gào -, Macônđô đã bị nước vây quanh rồi.
Cái ý niệm về một bán đảo Macônđô cứ lớn lên trong thời gian dài, được thể hiện trên tấm bản đồ nhiều sai lầm mà Hôsê Accađiô Buênđya đã vẽ nó vào lúc đoàn thám hiểm của ông trở về ông vẽ nó mà lòng đầy giận dữ, do đó đã quá cường điệu những khó khăn giao lưu với bên ngoài. Ông làm thế như là để trừng phạt ngay chính mình vì tội thiếu cân nhắc cặn kẽ khi chọn địa điểm này để lập làng. "Sẽ chẳng bao giờ chúng ta đi tới đâu được", ông thở than trước mặt Ucsula. "Chúng ta đến mục xác trong khi còn sống ở đây mà chẳng thể nào được hưởng những lợi ích của khoa học đem lại". Cái ý nghĩ sáng tỏ ấy, được nung nấu vài tháng trong phòng thí nghiệm dã dẫn ông tới việc thai nghén một kế hoạch chuyển Macônđô đến một địa điểm thích hợp hơn. Nhưng lần này Ucsula phản đối những kế hoạch vội vàng của ông. Trong quá trình vận dộng thầm lặng và khéo léo của một nhời đàn bà cần mẫn, bà chuẩn bị cho các bà phụ nữ trong làng chống lại mọi sự hời hợt của những ông chồng đã bắt đầu chuẩn bị để di chuyển. Hôsê Accađiô Buênđya không biết từ bao giờ và vì sức mạnh chống đối nào mà các kế hoạch của ông cứ lộn nhào trong mớ bòng bong những nguyên cớ và mâu thuẫn để rết cục chúng chỉ còn là một ảo tưởng đơn thuần.
Ucsula chăm chú theo dõi ông, theo dõi ông cho đến khi bà mủi bòng thương. Ấy là buổi sáng bà gặp ông trong căn phòng ở cuối nhà. Trong lúc sắp xếp dụng cụ của phòng thí nghiệm vào các hòm, ông lải nhải dự tính những mơ ước khi di chuyển được làng. Bà để cho ông làm xong. Bà để cho ông đóng đinh các hòm lại và dùng cành bài hương chấm mực viết tắt tên họ mình lên trên mà không hề than với ông một lời, nhưng bà hiểu rằng ông thừa biết (vì bà nghe thấy ông nói ra trong các cuộc độc thoại) rằng những người đàn ông trong làng sẽ không tham gia kế hoạch di chuyển. Chỉ đến khi ông gỡ cánh cửa phòng ra, lúc ấy bà mới dám hỏi vì sao ông làm thế, và ông chua xót trả lời bà: "Bởi vì không ai đi thì chúng mình cứ đi". Ucsula vẫn bình tĩnh:
- Chúng mình cũng không đi đâu hết, - bà nói. - Chúng mình ở tại đây bởi vì ở đây chúng mình đã sinh hạ được một đứa con. - Một khi chúng ta chưa có người thân chết để chôn dưới đất thì chúng ta vẫn cứ là những kẻ không quê hương bản quán.
Với lòng kiên nhẫn, bà nhẹ nhàng cãi lại:
- Nếu cần thiết tôi phải chết để các người ở lại đây, tôi sẽ chết.
Hôsê Accađiô Buênđya không tin rằng quyết tâm của vợ mình lại nghiêm túc đến thế. Ông cố thuyết phục bà bằng phép mầu nhiệm của mình, bằng lời hứa về một thế giới huyền ảo nơi chỉ cần rỏ mấy giọt nước thần xuống đất là đủ để cây đơm trái theo ý nguyện của con người, nơi mọi thuốc men và phương tiện chữa bệnh cho con người được bán với giá rẻ. Nhưng Ucsula vẫn điềm nhiên trước những lời đường mật có sức thôi miên của ông:
- Thôi đi, xin ông hãy bỏ những ý nghĩ viển vông ấy đi và hãy lo cho các con, - bà nói. - Hãy nhìn chúng kìa, có thảm không! Ôi những đứa trẻ không được chăm sóc theo đúng ý lành của Thượng đế. Chúng chẳng khác gì những con lừa.
Lần nữa, Hôsê Accađiô Buênđya chăm chú nghe từng lời của vợ mình. Ông nhìn qua cửa sổ và thấy hai đứa trẻ đi chân đất ở ngoài vườn nắng và ông có cảm giác rằng chỉ đến lúc ấy chúng mới bắt đầu tồn tại. Ông để ý tới chúng nhờ lời khẩn cầu của Ucsula. Vậy là có một cái gì đó đã xảy ra trong tâm trạng ông, cái gì đó thiêng liêng và có thực đôi ông ra khỏi thời hiện tại của mình và đưa ông trôi dần vào cõi nguyên sơ của dòng ký ức.
Trong lúc Ucsula quét nhà, ngôi nhà mà giờ đây chắc chắn bà sẽ gắn cả đời mình với nó, ông ngồi đắm đuối nhìn những đứa trẻ cho đến khi mắt ông đẫm lệ. Ông lấy mu bàn tay chùi đi, thở phào một cách nhẹ nhõm rồi đĩnh đạc nói:
- Thôi được, nào bà hãy bảo chúng nó đến giúp tôi ôi các thứ trong hòm ra?
Hôsê Accađiô, đứa lớn, đã lên mười bốn tuổi. Cậu có cái đầu vuông vức, tóc rễ tre và có đức tính làm theo sở thích riêng y hệt tính cha. Mặc dù cậu to lớn và có sức mạnh cơ bắp nhưng rõ ràng ở tuổi này cậu đã để mất trí tưởng tượng. Cậu được hoài thai và sinh ra trong lúc mọi người đang khó nhọc vượt núi, ấy là lúc trước khi thành lập làng Macônđô. Cha mẹ cậu cảm tạ thượng đế khi xem khắp người cậu không thấy có bộ phận nào là bộ phận của con vật. Aurêlianô, người đầu tiên sinh ra ở Macônđô, sẽ lên sáu tuổi vào tháng ba tới. Cậu bé lặng lẽ và cô ơn. Cậu đã khóc trong bụng mẹ và lọt lòng với đôi mắt mở thao láo. Trong lúc người ta cắt rốn cho cậu thì cậu ngọ nguy cái ẩu từ bên này sang bên kia để làm quen với các vật bày trong phòng và với tính tò mò không sợ hãi, dò xét khuôn mặt của đám đông. Sau đó, mặc kệ những ai đến gần để xem mình, cậu bé cứ chăm chăm nhìn lên mái nhà ọp ẹp xuýt sập xuống dưới sức ép khủng khiếp của cơn mưa. Một ngày nọ, cậu bé Aurêlianô, mới lên ba tuổi, bước vào nhà bếp giữa lúc Ucsula lắc nồi canh ra khỏi bếp và đặt nó lên bàn, chính trong ngày ấy, bà mới nhớ lại sức nặng của cái nhìn ấy. Cậu bé thập thò ở hoài cửa, nói: "Nó sẽ đổ đấy"… Cái nồi đã được đặt che chắn trên bàn, nhưng bỗng nhiên, đúng như lời cậu báo trước, nó bắt đầu rung lên bần bật rồi lăn ra mép bàn như có sức đẩy từ bên trong, và nó vỡ toang từng mảnh trên sàn nhà. Ucsula hoảng sợ, kể lại câu chuyện với chồng mình, nhưng ông giải thích cái hiện tượng ấy như một hiện tượng tự nhiên. Ông vẫn thường như thế, luôn luôn không để ý đến sự có mặt của các con mình, phần vì coi tuổi thơ như một giai đoạn thiếu trí tuệ và phần vì lúc nào ông cũng quá đam mê trong những lý thuyết hư vô.
Nhưng kể từ buổi sáng gọi bọn trẻ đến giúp mình tháo dỡ các dụng cụ của phòng thí nghiệm ra khỏi thùng, ông đã dành cho chúng những giờ quí nhất của mình. Trong căn phòng biệt lập mà trên các tường của nó ngày một dày đặc các bản đồ khó hiểu và các bức hoạ huyền thoại, ông dạy chúng đọc, viết, làm toán và ông nói với chúng về những điều kỳ diệu của thế giới không chỉ dừng lại trong khuôn khổ những hiểu biết mà nhiều khi còn vượt xa trí tưởng tượng của ông. Đây là điều mà bọn trẻ vừa học được: ở một miền đất tận cùng Nam châu Phi, có những người rất đỗi thông tuệ và hiền lành đến mức niềm vui duy nhất của họ là được ngồi suy tư; và rằng người ta có thể lội qua biển Egiê(5) bằng cách nhảy từ đảo này sang đảo khác cho đến tận cảng Xalônich(6). Những buổi học kỳ thú ấy đọng lại như khắc vào ký ức những đứa trẻ, đến mức nhiều năm sau này, một phút trước khi viên sĩ quan của quân đội Bảo hoàng ra lệnh cho đội hành hình nổ súng, đại tá Aurêlianô Buênđya đã sống lại buổi chiều tháng ba êm đềm, cái buổi chiều cha chàng bỏ dở bài học vật lý, đầy hào hứng với một tay giơ lên không và đôi mắt lim dim để đón nghe từ xa vọng đến tiếng kèn, tiếng trống, tiếng lục lặc của người digan đã nhiều lần tới làng đang rùm beng quảng cáo phát minh mới nhất đầy kình ngạc của các nhà thông thái sứ Memphi(7).
Đó là những người digan mới. Những người đàn ông và dàn bà trẻ, chỉ biết chính thứ tiếng mẹ đẻ của mình. Họ là những vật mẫu khả ái về nước da bóng mịn và bàn tay thông minh, mà những điệu nhảy và âm nhạc của họ gieo niềm vui ồn ào trên mọi nẻo đường làng. Họ mang theo những chú vẹt lông nhuộm đủ màu có thể ngâm những bài dân ca Ý; con gà mái đẻ trăm quả trứng vàng theo nhịp trống panđêrêta; con khỉ đã được dạy dỗ đoán điều anh đang suy nghĩ; cỗ máy vạn năng vừa đơm cúc vừa làm hạ cơn sốt; chiếc máy dể quên đi những ký ức buồn, dữ; lá cao để quên thời gian và hàng nghìn những phát minh khác, tất cả đều rất khéo léo và kỳ thú đến mức Hôsê Accađiô Buênđya cũng muốn chế ra cái máy nhớ để có thể nhớ tất cả. Chỉ trong chốc lát, người digan làm cho làng thay đổi. Những người dân Macônđô bỗng chốc cũng bị lạc đường ở ngay chính quê hương mình, vì họ đang ngây ngất trước hội chợ phong phú này.
Dắt tay từng đứa trẻ để chúng khỏi bị lạc trong đám đông hỗn độn, đụng hoài phải những người làm trò ảo thuật có hàm răng mạ vàng và những người múa rối có sáu cánh tay, ngột ngạt trong mùi dầu hồi và mùi bạc hà do đám đông phả ra, Hôsê Accađiô Buênđya đi tìm Menkyađêt khắp nơi để ông ta giảng giải cho mình nghe những bí mật không lường hết được của nỗi trăn trở huyễn hoặc ấy. Đi mãi, đi mãi, rồi cuối cùng ông cũng đến nơi Menkyađêt vẫn thường dựng lều, nhưng ông lại gặp một người Acmêni lầm lỳ nói tiếng Tây Ban Nha đang quảng cáo một thứ nước xi rô có phép tàng hình. Ông ta uống đánh ực một cốc nước pha hổ phách trong lúc Hôsê Accađiô Buênđya rẽ đám đông đang trố mắt xem trò ảo thuật và ông đã đến tận nơi để hỏi thăm Menkyađêt. Người digan ngạc nhiên nhìn ông, trước khi tàng hình vào một vũng nước hắc ín đặc sánh và nóng hổi, từ đó vọng lên câu trả lời: "Menkyađêt đã chết rồi ị. Hoảng hốt trước cái tin dữ này, Hôsê Accađiô Buênđya chết lặng người, cố vượt qua nỗi thống khổ, cho đến khi đám người xem bỏ đi theo lời mời chào của các trò ảo thuật khác, và vũng nước của người Acmêni hoàn toàn bay hơi. Sau đó những người digan khác cũng khẳng định với ông rằng quả đúng thế. Menkyađêt đã chết vì sốt rét tại những cồn cát ở Xinhgapo và thi hài của ông ta đã được ném xuống vùng nước sâu nhất của biển Giava. Bọn trẻ không để ý đến tin này.
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 10:52 am

Chúng đang nũng nịu đòi cha dẫn đi xem phát minh mới lạ của các nhà thông thái xứ Memphi, được quảng cáo ở ngay cửa ra vào của quán hàng, theo như lời đồn, nó thuộc về hoàng đế Xalômông. Chúng đòi da diết đến mức Hôsê Accađiô Buênđya phải trả ba mươi đồng rêan vào cửa để dẫn các con mình vào ngay giữa quán hàng là nơi có một người khổng lồ thân thể lông lá có cái đầu cạo nhẵn, mũi đeo một chiếc khuyên đồng, cổ chân đeo một chiếc xiềng sắt nặng trịch, đang canh giữ một chiếc hòm bí mật. Khi người khổng lồ mở nắp, từ trong hòm phả ra một luồng hơi lạnh buốt. Trong hòm chỉ có một khối trong suốt với những lỗ nhỏ li ti mà khi ánh hoàng hôn chiếu vào bỗng lấp lánh đủ sắc màu như các vì sao. Lòng đầy hoang mang vì biết rằng bọn trẻ nhà ông đang đợi một lời giải thích ngay tức thì, Hôsê Accađiô Buênđya chỉ dám thầm thì nói:
- Đó là một viên kim cương lớn nhất thế giới.
- Không phải, - người digan chữa lại, - đó là nước đá.
Không hiểu gì, Hôsê Accađiô Buênđya giơ tay định sờ vào tảng nước đá, nhưng gã khổng lồ gạt phắt tay ông đi. "Muốn sờ nó, phải đưa thêm năm đồng rêan nữa!", gã nói. Hôsê Accađiô Buênđya đưa năm đồng rêan rồi đặt bàn tay lên tảng nước đá. Ông để nguyên tay vài phút trong lúc tìm ông đập dồn dập đầy vẻ vừa lo sợ vừa thích thú khi được tiếp xúc vôi vật diệu kỳ này.
Không biết nói gì hơn, ông móc túi trả thêm mười đồng rêan nữa để cho các con ông cũng được sống cái cảm giác diệu huyền này. Cậu bé Hôsê Accađiô không dám sờ tảng nước đá. Trái lại, Aurêlianô tiến lên phía trước một bước, đặt bàn tay vào tảng nước đá nhưng rụt ngay ra. "Eo ơi, bỏng kinh", cậu hốt hoảng thốt lên. Nhưng cha cậu không để ý đến lời cậu. Lòng đầy cảm kích thước sự hiển nhiên của vật kỳ ảo, lúc này ông quên đi sự thất bại của những công việc viển vông của mình, quên đi cái tử thi Menkyadêt bị ném xuống biển làm mồi cho cá mực. Ông trả thêm năm đồng rêan nữa, rồi với bàn tay đặt trên tảng nước đá, như để trình bày một lời chứng trên Kinh Thánh, ông thốt lên:
- Đây là một phát minh lớn nhất của thời đại chúng ta.
Chú thích:
1) Magadanet: vịnh biển ở Chilê, mang tên nhà thám hiểm Phecnamđô đê Magadanêt đã phát hiện ra nó vào năm 1520.
(2) Nôstrađam, còn gái Mighen đơ Nôstređam (1503-1566) nhà chiêm tinh và thầy thuốc người Pháp, tác giả của những lời sấm truyền nổi tiếng.
(3) Nguyên văn: Piedra filosofal (tiếng Pháp là Pierre Philosophal) có học giả dịch là "điểm kim thạch", một hợp kim mà theo quan niệm của các nhà giả kim thuật có phép màu biến các kim loại thành vàng.
(3) Naxianxênô: dân thành Naxianxô thuộc Tiểu Á.
(5) Biển Egiê là một phần của Địa Trang Hái, nằm giữa bán đáo Ban căng và Anatôli.
(6) Cảng Xalônich thuộc Hy Lạp trong vịnh cùng tên được biển Egiê tạo nên, là mót trung tâm công nghiệp quan trọng.
(7) Memphi, thuộc Hoa Kỳ, một trung tâm công nghiệp nằm trên bờ sông Misisipi

Chương 2

Khi tên cướp biển Phrăngxit Đrăc tấn công Riôacha ở thế kỷ XVI, bà tổ của Ucsula Igoaran đã quá kinh ngạc trước tiếng chuông nhà thờ inh ỏi đổ hồi và tiếng đại bác chát chúa nổ rền, đến mức quẫn trí ngồi vào một bếp than hồng. Những vết sẹo cháy đã làm cho cụ trở thành một người vợ ăn bám suốt đời. Cụ chỉ có thể ngồi nghiêng một phía dựa lưng trên những chiếc gối đệm và đi đứng kỳ dị, bởi thế chẳng bao giờ cụ đi ra ngoài trước con mắt mọi người. Cụ từ bỏ mọi sình hoạt xã hội vì bị ám ảnh bỏi cái ý nghĩ người mình phả ra mùi khét khó chịu. ánh bình minh bắt gặp cụ ở ngoài sân. Cụ không dám ngủ bởi nằm mộng thấy bọn người Anh cùng với những con chó dữ tợn đã trèo qua cửa sổ phòng ngủ và làm cụ chết khiếp vì những cực hình ghê rợn bằng những thanh sắt nung đỏ. Chồng cụ, một thương nhân người vùng Aragông(1), đã có hai con với cụ, tiêu tốn một nửa cửa hàng để thuốc thang và mua vui cho vợ, ngõ hầu làm giảm bớt nỗi sợ hãi. Cuối cùng, ông cụ bỏ nghề buôn, mang gia đình đi sống ở một miền xa biển, trong một xóm những người dân Anhđiêng hiền lành ở sâu trong núi. Tại đây cụ ông đã làm cho vợ một phòng ngủ không cửa sổ để bọn ướp biển, trong những cơn ác mộng kia, không có lối nhảy vào.
Tại xóm vắng này, trước đó rất lâu có một nhà trồng thuốc lá người Âu, sinh ra trên châu Mỹ. Đó là Đông(2) Hôsê Accađiô Buênđya người mà cụ tổ Ucsula cùng thành lập một tổ hợp sản xuất chỉ trong một thượng ngắn đã có vốn to. Vài thế ky sau, người cháu của ông tổ kết hôn với cô cháu gái của ông tổ Aragông. Vì thế mà mỗi bận Ucsula ra khỏi nhà theo tiếng gọi cuồng nhiệt của chồng mình, đã nhớ lại những ngẫu nhiên xảy ra cách đây ba trăm năm, và nguyền rủa cái giờ mà tên cướp biển Phrăngxit Đrăc tấn công Rioacha. Đó là cách đơn giản để giải phiền, bởi trên thực tế họ đã gắn bó với nhau cho tới khi chết bởi mối liên hệ còn bền chặt hơn cả tình yêu: đó là nỗi dằn vặt lương tâm chung cả hai người. Là anh em với nhau, họ cùng lớn lên trong một xóm cũ mà các bậc tiền bối của mình, bằng lao động và thuần phong mỹ tục, đã biến nó thành một cái làng tốt đẹp nhất trong số các làng thuộc tỉnh này. Mặc dù cuộc hôn nhân của họ đã thấy trước một cách hiển nhiên ngay khi trào đời, nhưng khi họ bộc lộ ý nguyện được lấy nhau thì cha mẹ hai bên đã định ngăn cản. Các cụ sợ rằng hai con người khoẻ mạnh đó thuộc hai dòng họ hàng thế kỷ đã có tình thâm giao sẽ phải sống trong tủi hổ vì sinh ra những con kỳ đà. Trước họ đã có tấm gương tày liếp. Bà cô của Ucsula lấy ông chú của Hôsê Accađiô Buênđya sinh ra một dứa con suốt đời mặc quần rộng thùng thình và chết vì bệnh chảy máu sau khi đã sống một cuộc đời bốn mươi hai tuổi luôn luôn trai tân, bởi vì y sinh ra và lớn lên với cái đuôi xoắn hình chiếc mở nút chai ở cuối có một túm lông. Đó là một cái đuôi lợn mà y không bao giờ để cho bất kỳ người đàn bà nào nom thấy. Và y đã phải trả giá bằng cả cuộc đời mình khi một người làm nghề đồ tể dùng con dao phay chặt phắt luôn cái đuôi lợn ấy đi. Hôsê Accađiô Buênđya với sự thanh thản của tuổi mười tám đã giải quyết vấn đề này bằng một câu gọn lỏn: "Có đẻ ra lợn anh cũng cóc cần, miễn là biết nói". Thế là họ cưới nhau với tiệc tùng kéo dài ba ngày liền có pháo nổ và các ban nhạc giúp vui. Từ đó trở đi, bọn họ sẽ hạnh phúc biết bao nếu như bà mẹ Ucsula không đe doạ cô bằng tất cả những dị dạng đáng sợ của những đứa con sẽ sinh ra đến mức cô không dám cho động phòng. Vì sợ người chồng vâm váp và ngang ngược sẽ cưỡng dâm trong lúc mình ngủ, Ucsula, trước khi đi nằm, đã mặc một chiếc quần do bà mẹ may cho. Đó là một chiếc quần vải gai được một hệ thống dây da chằng khéo làm cho bền hơn với một chiếc khoá sắt to sụ đóng kín lại. Bọn họ sống như vậy trong mấy tháng liền. Ban ngày, chàng đi chăn dắt những chú gà chọi của mình, còn nàng cùng với mẹ ngồi thêu bên khung thêu. Ban đêm cô phải chống cự trong vài giờ trước khát vọng cuồng nhiệt của chồng mà việc ấy dường như được làm là để thay thế cho sự chung đụng xác thịt, cho tới khi linh cảm của dân chúng đánh hơi thấy có một cái gì không bình thường đang xảy ra và họ liền tung tin đồn rằng Ucsula sau một năm cưới chồng vẫn tiếp tục trinh tiết là do chồng cô bất lực. Hôsê Accađiô Buênđya là người biết tin đồn sau cùng.
- Ucsula này, mình thấy đấy, người ta đang đồn ầm lên, - anh bình tĩnh nói với vợ.
- Thây kệ họ nói, - cô nói, - chỉ cần chúng ta biết với nhau rằng liều đó là không đúng sự thực.
Vậy là vợ chồng họ cứ sống trong tình cảnh ấy trong khoảng sáu tháng nữa, cho đến một ngày chủ nhật bi thương là ngày Hôsê Accađiô Buênđya đã thắng Pruđênxiô Aghila một trận chọi gà. Giận dữ, điên tiết vì thấy máu con gà của mình, kẻ bị thua liền tách ra xa Hôsê Accađiô Buênđya để mọi người trong sởi chọi gà có thể nghe được lời mình sẽ nói:
- Tao mừng cho mày, - anh ta gào, - để xem xem cuối cùng con gà ấy nó có làm ơn cho vợ mày không nào.
Hôsê Accađiô Buênđya nín thinh, ôm lấy gà mình. "Tôi sẽ trở lại ngay", anh nói với mọi người, sau đó anh nói với Pruđênxiô Aghila:
- Còn mày, liệu xác đấy, hãy trở về nhà và cầm lấy vũ khí đi, kẻo tao sẽ giết mày.
Mười phút sau anh trở lại với cây giáo sắc nhọn của ông nội mình. Ngay ở lối ra vào sởi chọi gà, nơi có đến nửa làng đã tụ tập, Pruđênxiô Aghila đang đứng chờ. Anh ta không có thời gian để tự vệ. Cây giáo của Hôsê Accađiô Buênđya được phóng đi với sức mạnh của con bò tót và với đường bay chính xác của chính cây giáo do cụ Aurêlianô Buênđya Thứ nhất phóng đi từng kết liễu những con hổ trong vùng, đã xuyên qua cổ họng Pruđênxiô Aghila. Đêm ấy, trong lúc mọi người đang viếng tử thi ở ngoài sới chọi gà thì Hôsê Accađiô Buênđya bước vào phòng ngủ giữa lúc vợ anh đang mặc chiếc quần trinh tiết.
Huơ huơ cây giáo trước mặt cô, anh ra lệnh: "Hãy cởi thứ đó ra".
Ucsula không nghi ngờ quyết định của chồng. "Mình sẽ phải chịu trách nhiệm về điều vừa xảy ra", anh rền rĩ nói. Hôsê Accađiô Buênđya cắm phập ngọn giáo xuống nền nhà.
- Nếu mình đẻ ra kỳ đà thì chúng mình sẽ nuôi kỳ đà, - anh nói - Nhưng trong cái làng này sẽ không có thêm những người hết vì tội lỗi của mình.
Đó là một đêm tháng bảy đẹp trời, trăng thanh gió mát và bọn họ thức suốt đêm vần nhau trên giường cho đến lúc rạng đông, không để ý tới gió lùa vào phòng mang theo tiếng than khóc của gia quyến Pruđênxiô Aghila.
Đám tang này được liệt hạng đám tang danh dự, nhưng hai người dằn vặt lương tâm. Có một đêm mất ngủ, Ucsula ra sân ống nước, đã nhìn thấy Pruđênxiô Aghila đứng ngay bên cạnh chum. Anh ta đứng đấy, xanh tái, vẻ rầu rĩ, đang muốn dùng ẵm rơm cọ bát để nhét vào lỗ thủng nơi cổ họng. Cô không hãi nhưng mủi lòng thay. Cô trở vào phòng kể lại cho chồng nghe điều mắt mình nhìn thấy nhưng anh không tin. "Những người chết không đi ra khỏi phần mồ của mình", anh nói. "Chẳng qua là chúng mình không chịu nữa sự giày vò của lương tâm mình thôi".
Hai đêm sau, Ucsula lại nhìn thấy Pruđênxiô Aghila ở trong nhà tắm đang dùng bã lau lau vết máu đọng lại ở cổ. Đêm khác cô lại thấy anh ta đang đi lại dưới trời mưa. Giận dữ trước việc vợ mình nhìn thấy ma, Hôsê Accađiô Buênđya cầm giáo bước ra sân. Quả nhiên bóng ma rầu rĩ đang đứng ở đấy.
- Cút mẹ mày đi? - Hôsê Accađiô Buênđya gào lên. - Mày mà cứ lảng vảng ở đây ông sẽ giết?
Pruđênxiô Aghila không đi, mà Hôsê Accađiô Buênđya cũng không dám phóng cây giáo. Từ đấy trở đi anh không thể ngủ ngon giấc. Anh bị dằn vặt bởi chính nỗi buồn mênh mang của người chết từ trong mưa nhìn anh, bởi chính nỗi thương cảm sâu sắc của người chết đối với những người sống, bởi chính cơn khát của người chết lục khắp nhà để tìm nước dấp bã lau. "Có lẽ anh ta đau khổ lắm", Ucsula nói với chồng: "Anh ta quá lẻ loi".


Được sửa bởi NatalieChang ngày Sun Jul 13, 2008 11:15 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 11:07 am

Cô càng cảm động hơn khi lần gần đây nhìn thấy bóng ma đang mở vung nồi bếp thì cô hiểu cái mà nó đang tìm và kể từ lần ấy, cô đặt những tô nước ở khắp nhà cho nó. Một đêm nọ, bắt gặp bóng ma đang rửa vết thương ở ngay trong phòng mình, Hôsê Accađiô Buênđya không thể chịu được thêm nữa, đã nói:
- Được rồi, Pruđênxiô ạ, - anh nói với bóng ma, - chúng tôi sẽ đi khỏi làng mày, đi đến nơi xa nhất mà chúng tôi có thể đi, và chúng tôi sẽ không bao giờ trở lại nữa. Bây giờ cậu hãy đi đi, hãy thanh thản mà đi đi.
Đó là nguyên nhân bọn họ vượt núi. Vài anh bạn của Hôsê Accađiô Buênđya, tất cả đều trai trẻ như anh, náo nức với chuyến đi mạo hiểm này, đã thu dọn đồ đạc rồi mang chúng cùng với vợ con để đi tới miền đất chẳng một ai đã hứa hẹn cho họ. Trước lúc khởi hành, Hôsê Accađiô Buênđya đã chôn cây giáo ở ngay ngoài sân và lần lượt chặt cổ những con gà chọi tuyệt vời của mình mà lòng anh đinh ninh tin rằng làm như thế sẽ an ủi phần nào vong linh Pruđênxiô Aghila. Vật duy nhất mà Ucsula mang theo là một chiếc rương trong đó đựng quần áo cưới một ít đồ ăn và một túi nhỏ đựng những đồng tiền vàng của cha cô để lại. Đoàn người ra đi không đi theo một lộ trình nhất đinh. Họ chỉ mải đi theo hướng ngược lại con đường dẫn tới Riôacha để không bỏ lại một dấu vết nào và để tránh chạm mặt người quen. Đó là một chuyến đi kì dị. Khi đoàn người đi được mười bốn tháng trời, với cái bụng quặn đau vì thịt khỉ và canh rắn, Ucsula đẻ ra một chú bé với tất cả các bộ phận người của chú. Cô đẻ rơi giữa đường ngay lúc nằm trên một chiếc võng hai người khiêng, bởi vì hai chân cô xuống máu sưng vù lên mất cả hình thù, và các tĩnh mạch cứ phồng lên như những vấp rộp. Những đứa trẻ thật đáng thương hại với cái bụng lép và đôi mắt quầng thâm. Tuy vậy chúng lại tỏ ra dẻo dai hơn cha mẹ chúng trong chuyến đi gian truân này, và trong phần lớn thời gian còn thích thú là khác. Một buổi sáng nọ, sau gần hai năm ròng rã leo núi, họ là những người đầu tiên nhìn thấy sườn phía tây của dấy núi. Từ trên đỉnh núi mù mây phủ họ nhìn thấy mặt nước bằng bao la của một đầm lầy mênh mông trải tới tận bờ bên kia thế giới. Song chẳng bao giờ họ gặp biển. Có một đêm, sau vài tháng lạc lối giữa những đầm nước, những đã cách rất xa nơi cuối cùng họ gặp những người Anhđiêng trên con đường mình đi, họ nghỉ lại bên bờ một con sông nhiều đá, nước trong như một dải pha lê đông lạnh. Nhiều năm sau này, đại tá Accađiô Buênđya định theo con đường ấy để đánh úp Riôacha và sau sáu ngày đi chàng hiểu rằng đó là một cơn điên. Tuy nhiên, cái đêm họ nghỉ lại bên cạnh sông ấy, những người đồng hành của cha chàng đều hoảng hốt như những người chết đuối không nơi bám víu, nhưng con số của họ đã tăng thêm trong cả quá trình vượt núi và tất cả bọn họ quyết sống (dĩ nhiên họ đã tìm cách) cho đến lúc đẩu bạc răng long. Đêm ấy Hôsê Accađiô Buênđya nằm mộng thấy ở ngay nơi đó một thành phố đông vui với những ngôi nhà có tường kính đã mọc lên. Ông hỏi đó là thành phố gì và ông được trả lời bằng một cái tên chưa bao giờ nghe thấy, một cái tên chẳng có ý nghĩa gì nhưng nó cứ vang đọng trong giấc mơ: Macônđô. Ngay ngày hôm sau, ông thuyết phục các bạn mình rằng sẽ chẳng bao giờ bọn họ tìm thấy biển. Ông hạ lệnh cho họ phát quang một vùng bên cạnh sông, nơi thoáng mát hơn và tại dó họ lập làng.
Trước hôm được biết nước đá, Hôsê Accađiô Buênđya vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của giấc mộng về những ngôi nhà có tường kính. Sau hôm đó, ông những tưởng mình đã hiểu được ý nghĩa sâu xa của nó. Ông nghĩ rằng trong một tương lai không xa người ta có thể sản xuất hàng loạt các khối nước đá bằng vật liệu hết sức thông thường như nước lã, và dùng chúng để xây dựng những ngôi nhà mới cho làng. Lúc đó Macônđô sẽ không còn là một nơi nóng bức đến mức bản lề và chốt cửa bằng sắt cũng phải quăn lại vì hơi nóng, và trở thành một thành phố quanh năm là mùa đông. Nếu như ông không nôn nóng tiến hành xây dựng một nhà máy nước đá ngay là vì lúc ấy ông đang hào hứng với việc dạy dỗ các con mình, trước hết là Aurêlianô, cậu bé ngay từ đầu đã bộc lộ một năng khiếu đặc biệt về thuật làm vàng giả. Phòng thí nghiệm lúc nào cũng sạch bong không một vết bụi. Giờ đây, rất bình tâm, không náo nức trước điều kỳ ảo bằng việc xem lại những chỉ dân của Menkyađêt, ông cố tách vàng của Ucsula ra khỏi thứ hợp chất đóng chóc lại ở đáy chảo. Cậu thanh niên Hôsê Accađiô hầu như không tham gia công việc ấy. Trong khi cha cậu dốc toàn tâm toàn sức vào công việc trong ống nghiệm thì cậu cả, vốn là người thực làm theo ý mình, là người lớn trước tuổi, đã trở thành một chàng thanh niên lực lưỡng. Cậu vỡ giọng. Mép cậu đã lún phún mọc đầy lông tơ. Một đêm nọ, Ucsula bước vào phòng khi cậu đã cởi hết quần áo để đi ngủ. Bà thảng thốt cảm thấy vừa thẹn vừa thương. Đó là người đàn ông, sau chồng mình, bà thấy khỏa thân, và y đã được chuẩn bị chu đáo để vào đời và điều đó bà thấy không được bình thường. Lần thứ ba, Ucsula hoài thai, và lại sống lại những nỗi lo âu thuở mới lấy chồng.
Vào thời ấy, có một người đàn bà vui tính, ăn thô nói tục hay khơi chuyện, thường đến nhà, là người vẫn hay làm giúp các việc vặt trong nhà và biết bói bài. Ucsula đem chuyện con trai mình thổ lộ với thị. Bà nghĩ rằng cái cơ thể quá cỡ của con trai mình là một sự không bình thường như cái đuôi lợn của người chú họ. Người đàn bà bật một tràng cười ha hả vang vọng khắp nhà giống như một dòng thuỷ tinh ào chảy. Trái lại, thị nói, "cậu cả sẽ là người hạnh phúc đấy, bà ạ". Để khẳng định lời đoán số, vài ngày sau thị mang tới nhà một cỗ bài, rồi sau đó, một mình lẻn vào kho ngô ở gắn nhà bếp với Hôsê Accađiô và đóng chặt cửa lại. Thị điềm nhiên đặt cỗ bài lên chiếc bàn thợ mộc cũ, rồi liến thoắng nói rặt những chuyện không đâu, trong lúc đó chàng trẻ tuổi buồn chán hơn là thích thú ngồi bên cạnh thị chờ đợi. Bỗng nhiên thị giơ tay lên ôm choàng lấy anh. "Ôi tuyệt quá , thị nói một cách thảng thốt vẻ chân thành, và đó là điều duy nhất thị có thể nói được. Hôsê Accađiô cảm thấy gân cốt bủn rủn, sợ hãi và muốn khóc thét lên. Người đàn bà không hề dặn bảo anh điều gì. Nhưng suốt đêm ấy Hôsê Accađiô cứ lục tìm thị trong thứ mùi khói phả ra từ nách thị, và cái mùi ấy cứ bám lấy da thịt anh. Anh muốn lúc nào cũng được ở bên cạnh thị, muốn thị là mẹ mình. muốn rằng bọn họ, anh và thị không bao giờ sẽ ra khỏi kho ngô, muốn thị nói với mình ôi tuyệt quá, muốn thị lại ôm lấy mình rồi nói ôi tuyệt quá. Một ngày nọ, anh không thể chịu đựng thêm nữa và đã đến nhà thị để tìm thị.
Anh đến chơi nhà không được tự nhiên lắm, ngồi đợi ở phòng khách, không nói không rằng. Trong thời khắc ấy anh không thèm khát thị. Anh thấy thị hoàn toàn khác với hình ảnh mà cái mùi của thị khêu gợi; lúc này thị như một người đàn bà khát. Anh uống cà phê rồi từ biệt ngôi nhà ọp ẹp. Đêm ấy, trong nỗi sợ hãi do mất ngủ, anh lại da diết khát khao thị, nhưng lúc ấy anh không yêu thị như lúc ở trong kho ngô mà trái lại như trống cái buổi chiều ấy.
Mấy ngày sau, người đàn bà đột ngột gọi anh đến nhà mình vào lúc thị đang ở nhà với bà mẹ. Thị lôi anh vào buồng ngủ với cái cớ dạy anh chơi bài. Thế là thị tha hồ ôm anh, đến mức anh mất cả khoái cảm sau cú ngây ngất ban đầu, rồi anh cảm thấy sợ nhiều hơn là thích thú. Thị nũng nịu đòi anh phải đến tìm mình vào ngay đêm ấy. Anh đã trót đồng ý nhưng khi đi ra anh mới hiểu rằng không thể đi được. Song đêm ấy, trên cái giường nóng bỏng như than lửa, anh hiểu rằng cần phải đi tìm thị dù biết việc đó là không thể làm được. Anh sờ soạng mặc quần áo, tai lắng nghe trong bóng tối tiếng thở đều đều của cậu em, tiếng ho khan của cha mình ở phòng bên, tiếng hen khò khè của đàn gà mái ở ngoài sân, tiếng muỗi vo ve, tiếng thình thình của con tim mình đập và tiếng ồn ào của trời đất chưa bao giờ anh được nghe, rồi anh bước ra con đường đang im lìm ngủ. Anh thành tâm mong muốn cửa đã được cài then hẳn hoi chứ không chỉ khép lại như lời thị hứa với anh. Nhưng cửa vẫn chưa cài then.
Anh lấy ngón tay khẽ đẩy cánh cửa và thế là các bản lề rít lên cọt kẹt nghe vừa buồn vừa âm vang khiến anh lạnh cả gáy. Kể từ lúc anh bước vào, bằng cách lách vai nhẹ nhàng để không gây tiếng động, anh vẫn cảm thấy cái mùi ấy. Anh vẫn còn ở trong phòng khách là nơi ba người em trai thị mắc võng ở những vị trì mà cho đến lúc này anh không biết và trong bóng tối không thể xác định được, vậy là anh chỉ còn thiếu sờ soạng mà bước vào, mà đẩy cánh cửa phòng và đi đến nơi ấy làm sao không bị nhầm giường thì nằm. Anh tìm nó. Anh vấp phải dây võng mắc ở tầm thấp hơn là anh tưởng, và cái người đàn ông đang ngáy khò khò cho đến lúc ấy vẫn đang mộng mị, nói vẻ tỉnh khô: "Đó là ngày thứ tư". Khi đẩy cánh cửa buồng ngủ anh đã không thể tránh được cú vấp phải mép sàn nhà nhô cao.
Trong bóng đêm tối đen như mực, bỗng nhiên, với một nỗi nhớ nhung không thể đừng được, anh hiểu rằng mình đã hoàn toàn mất phương hướng. Trong phòng chật hẹp này có bà mẹ, cô em, người chồng và ba đứa con của cô ta đang ngủ, và cả người đàn bà nữa, mà có lẽ thị không đợi anh, cũng đã ngủ rồi. Có lẽ anh sẽ không lần theo cái mùi ấy nếu như nó không nồng nặc khắp nhà. Cái mùi đàn bà ấy vừa có vẻ hư hư lại vừa có vẻ thực thực như thể lúc nào nó cũng ở ngay trên làn da anh. Anh đứng im như thằng phỗng trong một lúc lâu mà ngạc nhiên tự hỏi lòng mình đã làm thế nào để đi tới cái vực thẳm trống trải này. Giữa lúc ấy có một bàn tay xoè rộng các ngón cũng đang sờ soạng trong bóng tối, đã đụng phải mặt anh. Cái bàn tay ấy không ngạc nhiên, vì dù không biết đích xác là anh, nó đang đợi anh.
Thế là anh tin cái bàn tay ấy và trong trạng thái mệt mỏi đến kinh khủng, anh đã để cho nó lôi tuột mình đến một chỗ không được tiện nghi lắm, là nơi nó lột truồng anh ra, nó mân mê anh như mân mê củ khoai, nó vần anh sang bên trái lại xoay anh sang phải, là nơi anh không ngửi thấy mùi đàn bà nữa mà chỉ thấy mùi nước đái quỷ, và là nơi anh định nhớ lại gương mặt thị thì anh lại hình dung ra gương mặt bà Ucsula; rồi anh hoang mang mà nhận ra rằng mình đang làm một việc mà từ lâu hằng mong muốn nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng trên thực tế sẽ có thể được làm, không hề biết đang là nó như thế nào bởi không biết đâu là chân, đâu là đầu và cũng chẳng biết chân ấy là của ai, đầu ấy là của ái và anh cảm thấy mình không thể chịu đựng được hơn nữa trước cơn nhói biết nơi thận mình, trước cơn đau quắn nơi bụng mình, anh đâm phát hoảng và cảm thấy nỗi khao khát chếnh choáng vừa muốn được chạy trốn đồng thời vừa muốn được ở lại mãi mãi trong cái im lặng đầy thất vọng và cái cô đơn đáng sợ hãi này.
Người đàn bà ấy tên là Pila Tecnêra. Thị là một thành viên của đoàn người di cư đã lập nên làng Macônđô, bị gia đình lôi đi leo để tách thị ra khỏi gã đàn ông từng cưỡng hiếp thị vào lúc thị mới mười bốn tuổi, và theo đuổi thị đến năm thị hai mươi mốt tuổi, nhưng không bao giờ quyết định công khai quan hệ cửa hai người trước công chúng vì gã là con người sở khanh. Gã hứa sẽ theo thị đến cùng trời cuối đất, nhưng ngay sau đó, khi vấn đề đã êm đẹp đâu vào đó, thị cứ mòn mắt chờ trông, bằng cách đánh đồng gã với những người đàn ông cao lớn và cả với những người nhỏ bé thấp lùn, với những người đàn ông tóc hung và cả những người tóc đen, đó là những người mà quân bài hứa hẹn với thị rằng họ sẽ đến từ đường biển và từ đường bộ trong ba ngày, ba tháng hoặc ba năm. Trong lúc chờ đợi, thị đã đánh mất độ săn chắc của các bắp vế, độ căng phồng của bộ ngực, vẻ duyên dáng yểu điệu, nhưng lúc nào thị cũng giữ được con tim luôn bốc lửa tình. Cuồng nhiệt trước trò mê say ấy, đêm nào cũng vậy, Hôsê Accađiô đi tìm hơi thị bằng cách vượt qua cái mê cung ấy. Có những khi gặp cửa đóng then cài, anh đã gõ cửa vài lần, vì biết rằng đã có gan gõ lần thử nhất ắt phải gõ tới lần chót, và sau khi đã dai dẳng chờ đợi, anh được thị mở cửa.
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 11:10 am

Trong bóng đêm tối đen như mực, bỗng nhiên, với một nỗi nhớ nhung không thể đừng được, anh hiểu rằng mình đã hoàn toàn mất phương hướng. Trong phòng chật hẹp này có bà mẹ, cô em, người chồng và ba đứa con của cô ta đang ngủ, và cả người đàn bà nữa, mà có lẽ thị không đợi anh, cũng đã ngủ rồi. Có lẽ anh sẽ không lần theo cái mùi ấy nếu như nó không nồng nặc khắp nhà. Cái mùi đàn bà ấy vừa có vẻ hư hư lại vừa có vẻ thực thực như thể lúc nào nó cũng ở ngay trên làn da anh. Anh đứng im như thằng phỗng trong một lúc lâu mà ngạc nhiên tự hỏi lòng mình đã làm thế nào để đi tới cái vực thẳm trống trải này. Giữa lúc ấy có một bàn tay xoè rộng các ngón cũng đang sờ soạng trong bóng tối, đã đụng phải mặt anh. Cái bàn tay ấy không ngạc nhiên, vì dù không biết đích xác là anh, nó đang đợi anh.
Thế là anh tin cái bàn tay ấy và trong trạng thái mệt mỏi đến kinh khủng, anh đã để cho nó lôi tuột mình đến một chỗ không được tiện nghi lắm, là nơi nó lột truồng anh ra, nó mân mê anh như mân mê củ khoai, nó vần anh sang bên trái lại xoay anh sang phải, là nơi anh không ngửi thấy mùi đàn bà nữa mà chỉ thấy mùi nước đái quỷ, và là nơi anh định nhớ lại gương mặt thị thì anh lại hình dung ra gương mặt bà Ucsula; rồi anh hoang mang mà nhận ra rằng mình đang làm một việc mà từ lâu hằng mong muốn nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng trên thực tế sẽ có thể được làm, không hề biết đang là nó như thế nào bởi không biết đâu là chân, đâu là đầu và cũng chẳng biết chân ấy là của ai, đầu ấy là của ái và anh cảm thấy mình không thể chịu đựng được hơn nữa trước cơn nhói biết nơi thận mình, trước cơn đau quắn nơi bụng mình, anh đâm phát hoảng và cảm thấy nỗi khao khát chếnh choáng vừa muốn được chạy trốn đồng thời vừa muốn được ở lại mãi mãi trong cái im lặng đầy thất vọng và cái cô đơn đáng sợ hãi này.
Người đàn bà ấy tên là Pila Tecnêra. Thị là một thành viên của đoàn người di cư đã lập nên làng Macônđô, bị gia đình lôi đi leo để tách thị ra khỏi gã đàn ông từng cưỡng hiếp thị vào lúc thị mới mười bốn tuổi, và theo đuổi thị đến năm thị hai mươi mốt tuổi, nhưng không bao giờ quyết định công khai quan hệ cửa hai người trước công chúng vì gã là con người sở khanh. Gã hứa sẽ theo thị đến cùng trời cuối đất, nhưng ngay sau đó, khi vấn đề đã êm đẹp đâu vào đó, thị cứ mòn mắt chờ trông, bằng cách đánh đồng gã với những người đàn ông cao lớn và cả với những người nhỏ bé thấp lùn, với những người đàn ông tóc hung và cả những người tóc đen, đó là những người mà quân bài hứa hẹn với thị rằng họ sẽ đến từ đường biển và từ đường bộ trong ba ngày, ba tháng hoặc ba năm. Trong lúc chờ đợi, thị đã đánh mất độ săn chắc của các bắp vế, độ căng phồng của bộ ngực, vẻ duyên dáng yểu điệu, nhưng lúc nào thị cũng giữ được con tim luôn bốc lửa tình. Cuồng nhiệt trước trò mê say ấy, đêm nào cũng vậy, Hôsê Accađiô đi tìm hơi thị bằng cách vượt qua cái mê cung ấy. Có những khi gặp cửa đóng then cài, anh đã gõ cửa vài lần, vì biết rằng đã có gan gõ lần thử nhất ắt phải gõ tới lần chót, và sau khi đã dai dẳng chờ đợi, anh được thị mở cửa.
Ban ngày, thiếp đi vì buồn ngủ, anh thầm ngậm nhấm khoái cảm đêm trước. Song khi thị bước vào nhà, vui vẻ, hồn nhiên, vẻ bông lơn, thì anh chẳng phải mệt sức để che giấu nỗi mệt mỏi của mình, bởi vì cái người đàn bà có tiếng cười giòn từng làm kinh động những con bồ câu ấy rất mãn nguyện đã dạy cho anh biết thở thật sâu, biết giữ cho tim không đập quá dồn dập và đã cho phép anh biết vì sao những người đàn ông lại sợ chết đến thế. Anh quá mải mê suy tư đến nỗi không hiểu niềm vui tràn trề của tất cả mọi người trước việc cha và em trai anh làm náo loạn cả nhà bằng cách loan tin đã nung chảy được chất hợp kim và đã tách được vàng của Ucsula.
Quả nhiên, sau những ngày làm việc cần cù đầy hứng thú, cha con Hôsê Accađiô Buênđya đã giành được kết quả. Ucsula rất sung sướng, đến mức bà phải cảm ơn Thượng đế về phát minh của thuật giả kim, trong lúc đó dân làng tụ tập trong phòng thí nghiệm và gia đình mời họ xơi mứt ổi với bánh qui để mừng kỳ tích, Hôsê Accađiô Buênđya cho họ xem cái nồi nấu kim loại với số vàng đã được lấy lại, làm như thể ông vừa chế được. Sau khi cho mọi người xem khắp lượt, cuối cùng ông mang nó đến trước mặt đứa con trai đầu lòng của mình, người trong thời gian gần đây hầu như không bước chân vào phòng thí nghiệm. Đặt trước mắt anh thứ kim loại khô khốc và vàng óng, rồi ông hỏi: "Con thấy thế nào?". Hôsê Accađiô chân thành trả lời cha:
- Cái đồ cứt chó ấy mà!
Cha anh liền vả một cái tát trái vào miệng anh đến là đau, làm cho anh phải chảy máu và ứa nước mắt. Đêm ấy Pila Tecnêra dán thuốc cao lên chỗ sưng, mò mẫm trong bóng tối tìm chai rượu và bông và làm tất cả những gì thị muốn nhưng không làm anh khó chịu, để yêu anh mà không làm anh đau đớn. Bọn họ trở nên thân thiết, chỉ ít phút sau, không ai bảo ai, đã thầm thì to nhỏ nói chuyện với nhau:
- Anh muốn chỉ một mình em bên anh, - anh nói, - một ngày gần đây, anh sẽ kể hết chuyện chúng mình cho mọi người biết để kết thúc những trò vụng trộm luôn một thể.
Thị không định ngăn cản anh.
- Thế thì rất hay, - thị nói, - nếu chỉ có mình chúng mình với nhau thôi, chúng mình sẽ thắp đèn sáng để nhìn nhau cho sướng và em có thể gào to tất cả những gì em thích không còn lo một ai quấy rối, và anh sẽ thì thào bên tai em tất cả những lời tục tĩu anh nghĩ ra được.
Buổi trao đổi này, nỗi căm tức cha mình, và khả năng khẩn cấp của mối tình quá trớn, đã làm cho anh thêm bạo dạn rồi đột ngột, anh kể tất cả cho em trai mình nghe.
Thoạt đầu, Aurêlianô chỉ hiểu được nỗi nguy hiểm và những tai hoạ sẽ xảy ra do các cú liều mạng của anh trai mình gây nên, nhưng cậu vẫn chưa cảm nhận được cái khoái cảm đến đê mê của câu chuyện. Rồi niềm khao khát dần dần xâm chiếm cậu. Cậu bắt người anh kể tỉ mỉ những tình tiết li kì, đồng cảm với nỗi đau đớn ê chề và mềm lạc thú của ông anh, cậu cũng thấy bồi hồi lo âu và sung sướng. Cậu thức đợi ông anh mình cho đến gần sáng, cứ trằn trọc bồi hồi trên cái giường như có ai bỏ than đỏ vào, và khi ông anh trở về, cả hai người đều tỉnh như sáo nói chuyện cho đến lúc dậy, vì vậy mà chẳng bao lâu cả hai anh em đều lử đử lừ đừ, chán ngấy thuật giả kim và kiến thức uyên bác của cha mình và cả hai đều trốn vào cõi cô đơn.
"Bọn trẻ nhà này cứ như những thằng đần, lúc nào cũng thẫn thờ", Ucsula nói. "Có lẽ chúng bị giun quấy đấy". Bà chuẩn bị cho họ một tô nước thuốc lá paicô(3) và cả hai người điềm nhiên uống, rồi chỉ trong một ngày họ đã mười một lần ngồi vào bô, thải ra một vài con giun màu hồng hồng. Hai anh em thích thú chìa cho mọi người xem vì chúng cho phép họ đánh lạc hướng Ucsula về căn nguyên cái bệnh buồn phiền của họ. Lúc đó Aurêlianô không chỉ hiểu mà còn có thể cảm nhận những kinh nghiệm tình dục của ông anh như chính mình đã trải qua, bởi vì có một lẩn khi người anh kể rất tỉ mỉ về cách thức làm tình như thế nào, thì cậu đã ngắt lời hỏi: "Anh cảm thấy như thế nào?"… Không ngần ngừ, Hôsê Accađiô trả lời ngay:
- Như thể trời rung đất chuyển ấy.
Vào lúc hai giờ sáng một ngày thứ năm trong tháng Giêng, Amaranta đã ra đời. Trước lúc chưa có ai vào phòng, Ucsula xem xét khắp người đứa hài nhi. Nó nhẹ tênh và căng mọng như một con thằn lằn non, nhưng tất cả các bộ phận trên người nó đều thuộc giống người. Aurêlianô chỉ biết tin vui khi thấy mọi người kéo đến nhà mình rất đông. Để trốn tránh sự ồn ĩ này, cậu ra khỏi nhà đi tìm ông anh, người đã bỏ trống giường từ lúc mười một giờ, và đó là một quyết định đột ngột đến mức cậu không kịp tự hỏi làm thế nào để lôi được anh mình ra khỏi phòng Pila Tecnêra. Cậu đi quanh nhà thị vài giờ liền, cứ huýt sáo làm hiệu liên tục cho đến khi buổi bình minh buộc cậu phải trở về. Trong phòng của bà mẹ, cậu bắt gặp Hôsê Accađiô với bộ mặt tỉnh bơ, đang chơi với cô em gái mới sinh.
Ucsula hầu như vừa kết thúc kì nghỉ đẻ bốn mươi ngày thì những người digan cũng vừa tới làng. Đó chính là những người làm xiếc và những người múa rối từng mang nước đá đến đây.
Khác với nhóm người của Menkyađêt, chẳng bao lâu bọn họ đã trưng bày các thứ hàng hoá tiêu xài chứ không như trước đây chỉ có những thành tựu của tiến bộ khoa học. Khi mang nước đá đến, họ đã không quảng cáo mặt ích lợi phục vụ cho đời sống con người mà chỉ quảng cáo nó như một trò ảo thuật đơn thuần. Lần này, bên cạnh các trò tiêu khiển khác, họ mang đến một cái thảm bay. Họ không giới thiệu nó như một đóng góp cơ bản cho sự phát triển giao thông mà giới thiệu nó như một thứ đồ chơi. Dĩ nhiên dân chúng moi nốt những mẩu vàng cuối cùng để thưởng thức cú bay vù vù trên các nóc nhà trong làng.
Lợi dụng sự tha thứ đầy thú vị của công chúng đang ồn ào, Hôsê Accađiô và Pila Tecnêra đã sống những giờ tự do. Họ là hai người tình ngây ngất hạnh phúc giữa đám đông đến mức tưởng rằng tình yêu còn sâu sắc và lắng đọng hơn cả cái khoái lạc tột dình và tức thời của họ trong những đêm vụng trộm. Tuy vậy Pila Tecnêra lại phá tan cái niềm vui ấy. Phấn chấn hẳn lên trước đam mê của Hôsê Accađiô lúc đang tận hưởng hạnh phúc đôi lứa, thị nhầm lẫn cách thức nói và lúc cần nói, đã bỗng nhiên chụp lên đầu anh một trách nhiệm nặng nề bằng cả quả địa cầu. "Giờ đây, anh đã là một người đàn ông rồi đấy", thị nói với anh. Và vì anh không hiểu điều thị vừa nói, thị thong thả giải thích cặn kẽ:
- Nghĩa là anh sẽ có một đứa con trai.
Trong vài ngày liền, Hôsê Accađiô không dám ra khỏi nhà. Chỉ cần nghe thấy tiếng cười khanh khách của Pila Tecnêra là đã đủ để anh trốn vào phòng thí nghiệm, là nơi những thứ đồ thủ công mỹ nghệ, thành quả của thuật giả kim, đang sống lại nhờ lòng từ thiện của Ucsula. Hôsê Accađiô Buênđya vồn vã đón đứa con lầm lạc và hướng dẫn anh tập sự trong công việc mẩy mò của thuật giả kim đã được ông hiểu cặn kẽ. Một chiều nọ, hai anh em rất phấn khởi trước tấm thảm bay ngang tầm cửa sổ phòng thí nghiệm mang theo người digan lái và vài em nhỏ trong làng đang vui vẻ vẫy tay chào, và Hôsê Accađiô Buênđya không thèm nhìn tấm thảm bay. "Cứ để họ mơ mộng", ông nói, "chúng ta sẽ bay cao hơn bọn họ với phương tiện khoa học hơn cái thảm bay thảm hại này". Dẫu đang phải giả vờ làm ra vẻ hứng thú với công việc, Hôsê Accađiô không bao giờ có thể hiểu được những khả năng kỳ vĩ của lò luyện đá giả kim mà đối với anh nó chỉ đơn giản là một bình thuỷ tinh làm tồi quá. Anh biếng ăn, mất ngủ, cáu kỉnh, giống hệt cha mình lúc ông phải đối mặt với những thất bại trong một số công việc và trạng thái thất thường ấy của anh đã buộc ông phải thay anh làm mọi công việc trong lò luyện đá giả kim vì nghĩ rằng công việc này làm anh quá lao lực. Aurêlianô dĩ nhiên hiểu rằng nỗi đau khổ ấy của ông anh mình không liên quan gì đến lò luyện đá giả kim, nhưng cậu không tài nào làm cho anh thổ lộ với mình điều sâu kín kia. Hôsê Accađiô không còn hiếu động như trước. Từ một người hóm hỉnh và cởi mở anh trở thành một kẻ kín đáo và khó tính. Quá ưa thích nôi cô đơn, lúc nào cũng giận hờn xung quanh, một đêm nọ, như mọi bữa anh lại để trống giường bỏ đi ra ngoài, nhưng không đến nhà Pila Tecnêra mà đi thẳng một mạch đến hội chợ. Sau khi dạo khắp các trò vui, không thích thú trước bất kỳ trò thơi nào, anh để ý đến một người không diễn trò, một cô gái digan rất trẻ, hầu như còn đang ở tuổi thơ, đeo đầy cổ những hạt pha lê giả ngọc. Đó là một người đàn bà đẹp nhất cho đến lúc ấy anh được biết. Anh đang ở giữa đám người mải mê xem trò diễn một người đàn ông biến thành con rắn vì không nghe lời bố mẹ.
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 11:12 am

Hôsê Accađiô không để ý xem. Trong lúc diễn ra cuộc tra hỏi người đàn ông - con rắn, anh len lỏi giữa đám đông để đi tới nàng người đầu tiên là nơi anh gặp cô gái digan, dừng lại phía sau cô ta. Từ phía sau, anh ôm lấy thắt lưng cô ta. Cô ta cố vùng ra nhưng Hôsê Accađiô càng ôm chặt hơn. Vậy là cô đã rung động, đứng im nhưng vẫn quay lưng lại anh, run rẩy vì ngạc nhiên và sợ hãi mà không thể tin điều đó là sự thực, cuối cùng cô ngoảnh mặt lại, với nụ cười run rẩy cô nhìn anh. Trong lúc ấy hai người đàn ông digan lùa người đàn ông con rắn vào túi và mang vào bên trong quán hàng. Một người digan trưởng trò quay ra phía công chúng nói:
- Thưa quý ông quý bà, bây giờ chúng tôi xin trình diễn tiết mục kinh rợn về một người đàn bà, đêm nào cũng như đêm này, đều bị chặt đầu vào đúng giờ này trong suốt một trăm năm mươi năm vì tội đã dám nhìn cái không nên nhìn.
Hôsê Accađiô và cô gái không xem tiết mục chặt đầu người đàn bà. Họ đi về quán của cô, là nơi với nỗi thèm khát tuyệt vọng họ thỏa sức hôn nhau trong lúc cởi quần áo. Cô gái digan cởi hết những chiếc áo ngoài, những chiếc váy lót, chiếc coóc-xê đệm nhiều lần vải, chuỗi hạt pha lê giả ngọc thì bộ ngực căng và đôi mông nở trước đây bỗng biến đi mất. Thực ra cơ thể cô giống như một cành khô, ngực lép, vế teo không bằng cánh tay của Hôsê Accađiô, nhưng lại có được cái vẻ dạn dĩ và cái hơi nồng ấm kéo lại. Tuy nhiên, Hôsê Accađiô không thể đáp ứng ngay cơn cuồng nhiệt của cô, bởi họ đang nằm trong một cái quán công, là nơi những người digan qua lại luôn, lúc thì mang các dụng cụ làm xiếc, lúc thì hoá trang, có lúc họ tụ tập bên cạnh giường chơi một ván xúc xắc. Ngọn đèn treo trên một cây cột ở giữa bãi soi sáng xung quanh. Lúc họ thôi không mân mê nhau, Hôsê Accađiô trần truồng nằm duỗi thẳng cẳng trên giường, không biết làm gì thêm, thì cô gái cố làm trò khêu gợi anh. Sau đó, có lúc có một ả digan da dẻ bóng mượt bước vào, theo sau là một người đàn ông, vốn không phải là người cùng gánh xiếc cũng không phải là người làng này. Và rồi cả hai cùng cởi quần áo ngay trước giường Hôsê Accađiô đang nằm. Không có ý định trêu ngươi anh, người đàn bà nhìn Hôsê Accađiô, với lòng đầy thèm khát, háo hức ngắm nghía con vật trứ tuyệt của anh đang nghỉ ngơi.
- Ôi, anh bạn? - Ả reo lên. - Cầu Thượng đế sẽ che chở cô em cho anh bạn nhé.
Người bạn gái của Hôsê Accađiô yêu cầu để cho họ được yên và cái đôi ấy nằm xuống nền nhà ngay cạnh giường. Nỗi đam mê của những người khác đánh thức cơn hăng của Hôsê Accađiô. Ngay từ phút đầu, các xương hóc cô gái dường như long ra kêu ràn roạt như những quân đôminô chạm vào nhau, trên da cô nhớp nhúa thứ mồ hôi nhờ nhờ vàng, đôi mắt cô giàn giụa lệ cả người cô phát ra tiếng kêu ư ứ và phát ra thứ mùi bùn cứ lẩn vẩn đây đó. Nhưng cô gái dai sức đã vượt qua cú chung đụng với một tính cách kiên cường và một sự dũng cảm đáng khâm phục.
Lúc ấy Hôsê Accađiô cảm thấy mình bị nâng bổng lên đến trạng thái khó thở là nơi trái tim anh tan ra trong một cái giếng nhục dục êm dịu đang chảy vào cô gái theo các lỗ tai và chui ra qua lỗ miệng biến thành những lời được dịch sang ngôn ngữ của cô. Đó là thứ năm. Đêm thứ bảy, đầu đội một chiếc khăn đỏ, Hôsê Accađiô bỏ nhà ra đi cùng với những người digan.
Khi Ucsula thấy anh vắng mặt vội đi khắp làng tìm anh. Tại khu lán tan hoang, không có gì hơn là một dòng nước bẩn giữa những đám tro còn nóng trong các bếp đã dập lửa. Một người đang tìm những hạt pha lê giả ngọc trong đống rác, nói với Ucsula rằng đêm qua họ đã nhìn thấy con trai bà lẫn trong đám người digan ồn ào, tay đẩy chiếc xe cũi trong nhất người-rắn.
"Thế là nó theo bạn digan rồi", bà gào lên bên tai ông, người không tỏ một dấu hiệu lo lắng nào trước tin con trai mất tích.
- Cầu Chúa đúng như thế, - Hôsê Accađiô Buênđya nói và vẫn nghiền cái chất liệu đã được nghiền ngàn lần trong cối, đã được nung rồi lại nghiền. - Như vậy nó sẽ học để làm người.
Ucsula hỏi mọi người bọn digan đi về hướng nào. Trên đường đi bà lại hỏi, người ta lại chỉ cho, bà tiếp tục đi vì nghĩ rằng vẫn còn thời gian để đuổi kịp con trai. Cứ như thế bà đi ngày một xa làng hơn cho đến khi nhận ra mình đã ở cách làng quá xa đến mức không nghĩ sẽ trở về. Hôsê Accađiô Buênđya chỉ phát hiện ra sự vắng mặt của vợ mình vào lúc tám giờ tối, khi ông đặt chất hợp kim được nấu lại trên một lớp mùn và đi xem vì sao bé Amaranta khóe đến khản tiếng. Ít giờ sau, ông tập hợp một nhóm đàn ông nai nịt gọn gàng, đặt bé Amaranta vào tay một bà nhận cho bú chực, rồi đi tìm Ucsula. Aurêlianô cũng cùng đi với họ. Những ngư dân người Anhđiêng, bằng điệu bộ, đã ra hiệu cho họ biết rằng không thấy ai đi qua kể từ sáng sớm đến giờ. Sau ba ngày tìm kiếm vô ích, những người đi tin trở về làng.
Trong vài tuần, Hôsê Accađiô Buênđya hoàn toàn chịu thất vọng. Ông chăm nom bé Amaranta như một người mẹ. Ông tắm, thay quần áo cho bé rồi ban ngày, bốn lần mang bé đi xin bú, và ban đêm ông hát ru bé ngủ, vốn là việc Ucsula chưa từng làm. Có lần Pila Tecnêra tự nguyện đến xin đỡ đần công việc nội trợ cho đến khi nào Ucsula trở về. Aurêlianô, mà linh cảm kỳ lạ của cậu vốn đã cảm thấy thị là kẻ thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh này, quắc mắt nhìn thị khi thị bước vào. Vậy là cậu biết rằng dù dưới hình thức nào đi nữa thị cũng là kẻ có tội trong việc ông anh trai bỏ đi và tiếp đó, bà mẹ cậu mất tích, rồi bằng cách đó cậu đã thầm lặng và kiên quyết kết tội thị khiến cho người đàn bà này không dám bén mảng tới nhà nữa.
Với thời gian trôi đi mọi việc lại đâu vào đấy. Hôsê Accađiô Buênđya và con trai ông không hay biết vào lúc nào họ lại làm việc trong phòng thí nghiệm, nào lau bụi, nào đất lửa cho ống nghiệm, rồi lại mải mê tiến hành công việc bào chế các chất hợp kim đã vài tháng nay ngủ yên trên lớp mùn. Ngay đến bé Amaranta, nằm gọn trong chiếc nôi mây, cũng tò mò quan sát công việc lặng lẽ của cha và anh mình trong căn phòng lạ kì hẳn đi vì hơi thuỷ ngân. Sau mấy tháng Ucsula biệt tích, có một lần đã xảy ra những sự việc lạ lẫm. Một bình thuỷ tinh rỗng nằm trên tủ từ lâu từng bị người ta bỏ quên, bỗng nặng đến mức không thể xê dịch được. Một nồi đựng nước lọc đặt trên bàn làm việc, không hề có lửa đun ở dưới, cũng tự nhiên sôi sùng sục và chỉ trong nửa giờ đã cạn sạch nước. Hôsê Accađiô Buênđya và con trai ông thảng thốt nhìn những hiện tượng đó mà không thể giải thích được, nhưng rồi họ cứ khăng khăng cho chúng là điềm báo trước của chất hợp kim sẽ ra đời. Một ngày nọ, chiếc nôi của bé Amaranta tự nó quay tròn rồi đi xung quanh căn phòng trước nỗi hoảng hốt của Aurêlianô, người đã vội vàng chạy đến giữ lại. Nhưng cha cậu vẫn cứ điềm nhiên như không. Ông đặt chiếc nôi trở lại chỗ cũ rồi cột nó vào một chân bàn, lòng tin rằng cái sự kiện hằng mong đợi hẳn sẽ phải xảy ra nay mai. Đúng lúc ấy Aurêlianô nghe thấy cha mình nói:
- Nếu không sợ Thượng đế thì hãy sợ kim loại vậy!
Bỗng nhiên Ucsula trở về sau gần năm tháng mất tích. Bà trở về với vẻ hớn hở, trẻ trung, mặc bộ váy áo lạ kiểu đối với người làng. Hôsê Accađiô Buênđya mừng mừng tủi tủi hầu như không thể cưỡng lại cứ ôm hôn bà. "Chao ôi, ra thế cơ đấy!", ông nói như gào: "Tôi biết sẽ xảy ra mà" và thực tình ông tin, bởi vì trong những buổi ở lý trong phòng khi bào chế hợp chất, từ trái tim mình ông đã cầu cho sự kiện đang háo hức chờ đợi sẽ không phải là kết quả mỹ mãn của thuật giả kim, cũng không phải là sự giải thoát khỏi bễ lò đang thổi lửa nung chảy kim loại, cũng không phải phép biến bản lề, khoá cửa ở nhà này thành vàng, mà là cái sự kiện vừa xảy ra: Cuộc trở về của Ucsula. Nhưng bà không chia sẻ niềm vui ồn ĩ của chồng mình. Bà hôn ông theo lệ như thể bà vắng nhà chưa quá một giờ đồng hồ, rồi bảo ông:
- Mình hãy ra ngoài đi!
Khi ra đường và nhìn ngắm đám đông, Hôsê Accađiô Buênđya mãi mới định thần được. Họ không phải là bọn digan. Họ là những người đàn ông và đàn bà y hệt dân làng này, cũng có mái tóc mềm và nước da nâu, cũng là những người nói chính tiếng nói của ông và cũng thở than về cạnh những nỗi đau khổ ấy. Họ mang theo những chú lừa thồ thức ăn, những chiếc xe bò chở bàn ghế và dụng cụ nấu ăn, vốn là những thứ hàng giản dị và thiết cốt được những người bán hàng bày bán không phải quảng cáo. Họ tới đây từ bờ bên kia của đầm lầy, cách Macônđô khoảng hai ngày đường, là nơi các làng hàng tháng đều đặn nhận thư từ bưu điện và đã làm quen với các máy móc sản sinh nhiều lợi ích. Ucsula không đuổi kịp bọn digan, nhưng bà gặp được con đường mà chồng mình không thể phát hiện ra trong chuyến tìm kiếm những phát minh vĩ đại đã thất bại.

Chú thích:
(1) Một vùng phía Tây Bắc nước Tây Ban Nha.
(2) Tiếng tôn xưng: ngài, ông…
(3) Paicô - một thứ cây thuộc họ rau muối sản ở châu Mỹ, lá có vị chát có thể tẩy được giun.
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 11:20 am

Chương 3

Đứa con trai của Pila Tecnêra được mang về nhà ông bà nó sau hai tuần cất tiếng chào đời. Ucsula miễn cưỡng thừa nhận nó, bởi lại một lần nữa bà phải nhượng bộ tính gàn của chồng mình, người kiên trì giữ ý nghĩ rằng không thể để cho con cháu ông cù bơ cù bất trong cuộc đời, nhưng bà đã đặt điều kiện là không bao giờ cho đứa trẻ biết rõ gốc gác của nó. Mặc dù đứa trẻ mang tên Hôsê Accađiô, nhưng ông bà quyết định để tránh nhằm lẫn sẽ chỉ gọi chọc lỏn là Accađiô. Vào thời ấy ngoài làng có nhiều hoạt động xã hội và trong nhà có lắm công nhiều việc, cho nên việc chăm sóc trẻ lui xuống hàng thử yếu. Những đứa trẻ được giao phó cho Visitaxiôn, một cô thôn nữ người Anhđiêng, vì phải chạy trốn bệnh dịch mất ngủ từ vài năm nay đang hoành hành ở bộ tộc mình đã đến làng này cùng với em trai. Cả hai chị em đều hiền lành, ngoan nết và chịu thương chịu khó, vì vậy bà Ucsula đã tin cậy giao cho họ giúp mình công việc trong nhà. Bởi thế mà Accađiô và Amaranta đã nói tiếng của người thổ dân trước khi biết nói tiếng Tây Ban Nha, tập húp nước súp thịt thằn lằn và ăn trứng nhện mà Ucsula không hay biết, bởi vì bà đang mải công việc kinh doanh kẹo nặn hình con giống, một nghề nhiều triển vọng. Macônđô đã thay đổi hẳn. Những người cùng đến với Ucsula đã biết cách khai thác đất đai màu mỡ và vị trí địa lý nhiều ưu thế của Macônđô so với vùng đầm lầy, do đó chẳng bao lâu cái làng xác xơ nhanh chóng trở thành một làng nhộn nhịp có các cửa hiệu và xưởng thủ công và một phố buôn bán thường xuyên ở nơi những người A-rập đi giày păngtup và tai đeo khuyên đầu tiên đến đây để đổi những chuỗi hạt pha lê giả ngọc lấy những con vẹt đuôi dài. Hôsê Accađiô Buênđya không có lấy một lúc nghỉ ngơi.
Hào hứng trước một thực tế mà lúc này đối với ông còn huyền ảo hơn cả cái thế giới bao la trong trí tưởng tượng của mình, ông mất luôn hứng thú với công việc ở phòng thí nghiệm giả kim, bỏ mặc cái chất kim loại đã được nung đi nấu lại trong nhiều tháng liền để trở lại con người năng nổ như trước đây từng quyết định vạch những con đường và xây cất các ngôi nhà sao cho không một ai được hưởng nhiều thuận lợi hơn những người khác. Ông có uy tín cao đối với những người mới tới làng, đến mức những người này muốn đào móng xây nhà hoặc muốn rào vườn đều phải đến xin ý kiến ông trước, và ông được mọi người bầu là người đầu tiên quyết định chia lại đất đai của làng. Khi những người digan làm trò ảo thuật trở lại, lần này quầy hàng di động của họ đã trở thành một cửa hàng khổng lồ có các trò chơi may rủi, thì bọn họ đã được đón tiếp nồng nhiệt vì người ta nghĩ rằng Hôsê Accađiô sẽ cùng trở về. Nhưng Hôsê Accađiô đã không trở về, và bọn người digan này cũng không mang theo người- rắn, mà theo như Ucsula nghĩ thì cái gã người-rắn ấy sẽ là kẻ duy nhất có thể cho bà biết được sự thực về con mình, thế là bà đã không cho phép những người digan dừng lại mở cửa hàng và trong tương lai cũng sẽ không được đặt chân lên đất làng này bởi vì bọn họ đã bị lên án là những sứ giả của trò dâm dục và đồi bại. Nhưng Hôsê Accađiô Buênđya lại tỏ ra rất sáng suốt trong ý nghĩ rằng bộ tộc của Menkyađêt, cái bộ tộc bằng những hiểu biết lâu đời và những phát minh kỳ diệu từng đóng góp rất nhiều vào sự trưởng thành của làng Macônđô, lúc nào cũng được mở rộng cửa đón tiếp. Nhưng bộ tộc Menkyađêt, theo như lời những kẻ giang hồ, đã bị xoá khỏi lặt đất này bởi tội dám cả gan vượt qua những giới hạn hiểu biết mà Thượng đế đã phán quyết cho con người.
Thoát khỏi sự dằn vặt của những ham muốn huyễn hoặc, ít ra là trong thời gian này, Hôsê Accađiô Buênđya đã ổn định được nếp sống của làng trong kỷ cương và lao động, và cho phép thả những chú chim từ thời thành lập làng đã làm vui nhộn bầu không khí với tiếng hót của chúng, thay vào đó ông cho lắp dông hồ nhạc ở các nhà. Đó là những chiếc đồng hồ quý giá làm bằng gỗ được bào nhẵn mà những người Arập đổi cho dân làng để lấy những chú vẹt đuôi dài, và Hôsê Accađiô Buênđya đã điều khiển cho không cùng chạy một cách chính xác đến mức cứ nửa giờ một, dân làng vui vẻ hẳn lên trong tiếng nhạc hoà đồng dường như phát ra từ một chiếc đồng hồ duy nhất. Hôsê Accađiô Buênđya là người trong những năm ấy quyết định trồng những cây hạnh đào thay cho những cây keo dọc khắp các con đường và ông cung chính là người phát hiện ra nhưng không bao giờ tiết lộ các biện pháp khiến chúng trường tốn. Rất nhiều năm sau này, khi làng Macônđô trở thành một trại tập trung gồm những ngôi nhà tường gỗ mái lợp tôn, thì trên những con đường cổ kính vẫn còn những cây hạnh đào già cỗi phủ đầy bụi đường mặc dù lúc ấy không một ai biết người nào đã trồng chúng. Trong lúc cha lo sắp đặt công việc chung của làng và mẹ lo làm những chiếc kẹo hình con gà và con em cắm trên những chiếc que được mang ra chợ bán một ngày hai lần để tăng thu nhập gia đình, thì Aurêlianô say đắm ở lỳ trong phòng thí nghiệm bỏ không để nghiên cứu nghề mỹ nghệ vàng bạc. Cậu làm chỉ đơn thuần vì hứng thú riêng. Trong một thời gian ngắn Aurêlianô lớn ngồng lên, đến mức đã không mặc vừa quần áo cũ của anh trai và phải mặc quần áo của cha, nhưng Visitaxiôn lại phải chít nách áo và may hẹp ống quần lại vì cậu vẫn chưa có được thân hình vâm váp của cha và anh mình. Tuổi thanh niên đã lấy đi mất của Aurêlianô giọng nói ngọt ngào và đã khiến cho cậu trở nên lầm lỳ ít nói và cô đơn, nhưng trái lại nó cũng trả cho cậu sức biểu cảm mãnh liệt vốn có từ thuở lọt lòng mẹ trong đôi mắt. Aurêlianô tập trung quá sức vào những việc thực nghiệm kim hoàn đến mức hầu như không ra khỏi phòng thí nghiệm để đi ăn cơm. Lo lắng trước sự tập trung trí tuệ đến cao độ của con trai, Hôsê Accađiô Buênđya liền đưa cho cậu chìa khoá cửa và một ít tiền, vì ông nghĩ rằng có thể con trai mình thiếu gái ở bên cạnh. Nhưng Aurêlianô dùng khoản tiền đó mua axit clohydrich để tạo ra dung dịch axit clohydrich rồi cậu làm cho những chiếc chìa khoá bóng lộn nhờ một lớp vàng mạ bên ngoài. Những tính nết khác thường ấy của Aurêlianô cũng phù hoạ với Accađiô và Amaranta mà lúc này tuy đã thay răng nhưng đi đâu cũng bám lấy gấu quần những người Anhđiêng và rất ương bướng không chịu bỏ thổ ngữ để nói tiếng Tây Ban Nha. "Mình chẳng còn phải kêu ca gì nữa nhé", Ucsula nói với chồng mình: "Con cái thừa kế tính điên khùng của cha mẹ chúng". Trong lúc bà than vãn về số phận hẩm hiu của mình mà lòng tự thấy rằng những sự trái thói trái tính của các con trai mình quả thật cũng đáng kinh sợ như cái đuôi con lợn, thì Aurêlianô mơ màng nhìn bà:
- Có người sẽ đến nhà mình đấy! - cậu bảo mẹ.
Vì lâu nay cậu vẫn thường nói về những điềm báo, nên Ucsula, với thứ lý lẽ thông thường của mình, định làm cậu cụt hứng. Người đến nhà là chuyện bình thường. Hàng chục người lạ mặt vãng lai qua làng Macônđô mà chẳng khiến ai ngạc nhiên cũng chẳng thông báo điều gì bí mật. Tuy nhiên, bất chấp những lý lẽ thông thường ấy, Aurêlianô vẫn khẳng định điều mình tiên đoán:
- Con không biết là ai? - cậu nói, - nhưng người đến đây hiện đang trên đường đi.
Quả nhiên, Rêbêca đã đến vào một ngày chủ nhật. Cô bé chưa đến tuổi mười một. Cô bé đã phải vất vả đi từ Manaurê đến đây cùng với những người buôn da là những người có nhiệm vụ giao lại cô bé và bức thư tại nhà Hôsê Accađiô Buênđya, nhưng cũng chính những người này không thể giải thích rõ ràng ai là người đã nhờ cậy họ. Tất cả hành trang của cô bé gồm một cái hòm nhỏ đựng quắn áo, một chiếc ghế xích đu gỗ và một bao tải gai trong đó đựng hài cất của bố mẹ nó, những thứ vẫn thường kêu lộc cộc, lộc cộc, lộc cộc khi va chạm vào nhau. Bức thư gửi cho Hôsê Accađiô Buênđya được viết bằng những từ ngữ âu yếm thổ lộ tình cảm của người dù xa cách lâu ngày vẫn yêu thương ông và bởi một tình cảm rất thân ái, người đó tự thấy mình phải nhờ vả gia đình ông trông nom cô bé mồ côi không nơi nương tựa này và kể rằng cô bé là một người họ hàng tất gần với Ucsula và do đó cũng là chỗ thân tình của Hôsê Accađiô Buênđya tuy có xa hơn chút ít, bởi vì cô bé là con gái của một người bạn không thể nào quên được tên là Nicanô Udôa và người vợ cao quý của ông ta tên là Rêbêca Môntiên. Đó và những người đang được Thượng đế che chở trên thiên đường của Người, và hài cất của họ đã được thu lại để gia đình ông mai táng dưới phần mộ những con chiên của chúa Crixtô.
Những tên tuổi được dẫn ra cúng như chữ ký trong lá thư đều hoàn toàn rõ ràng, nhưng cả Hôsê Accađiô Buênđya lẫn Ucsula đều nhớ rằng mình không có ai thân quen có những tên ấy, kể cả tên người gửi thư và ở làng Manaurê xa xưa ấy càng không thể có ai mang những tên ấy. Qua cô bé họ cũng không thể tìm dược những tin tức đầy đủ hơn. Kể từ lúc đến, cô bé ngồi trên ghế xích đu, mút tay và với đôi mắt to sợ sệt quan sát tất cả mọi người, không hề tỏ vẻ rằng mình có hiếu hay không hiểu những điều người ta hỏi. Cô bé mặc quần áo vải điagônan dệt sọc đen đã sờn rách và đôi ủng màu vécni đã thủng, tóc vén qua mang tai buộc bằng những chiếc nơ đen. Cô bé còn mặc một chiếc áo choàng thêu không tay bị mồ hôi làm phai bạc đi, và trên cổ tay phải đeo một chiếc răng thú dữ cắm trên đế đồng, nó tựa như một chiếc bùa hộ mạng. Nước da cô bé xanh tái, cái bụng tròn vo và căng phồng giống như mặt trống, tất cả đều chứng tỏ cô bé rất bệnh hoạn và đói ăn lâu ngày. Nhưng khi được người ta cho ăn thì cô bé ngồi yên, đặt bát thức ăn trên đùi mà không hề nếm thử. Mọi người cứ đinh ninh rằng cô bé bị bệnh câm điếc cho tới khi những người Anhđiêng dùng thổ ngữ hỏi cô bé có muốn uống nước không thì đôi mắt cô bé chơm chớp làm ra vẻ hiểu họ và gật đầu xin nước.
Không còn cách nào khác là gia đình buộc phải nhận nuôi cô bé. Mọi người quyết định gọi cô bé là Rêbêca cho hợp với tên mẹ vì Aurêlianô đã đủ kiên nhẫn ngồi trước mặt nó đọc hết các tên thánh nhưng cậu không nhìn thấy một phản ứng nào, dù rất nhỏ, trên gương mặt cô bé. Trong thời gian ấy, ở làng Macônđô chưa có nghĩa địa, vì cho đến lúc này vẫn chưa có ai chết và thế là gia đình buộc phải cất giữ chiếc bao tải đựng hài cất cho tới khi nào có địa điểm xứng đáng để mai táng. Trong thời gian khá lâu chúng vương vãi khắp nơi, bị bắt gặp ở những nơi ít ngờ nhất thường kèm với tiếng kêu quang quác của chú gà hay bới. Phải mất một thời gian dài, Rêbêca mới làm quen với cuộc sống ở nhà này. Cô bé ngồi trên ghế xích đu, mút tay chùn chụt ở trong xó nhà vắng vẻ nhất. Chỉ có tiếng nhạc phát ra từ đồng hồ là cái duy nhất khiến cô bé chú ý. Cứ nữa giờ một, với đôi mắt thảng thốt, cô đón nghe như thể đang chờ đợi âm nhạc ấy ở một nơi tráng gió nào đó. Trong vài ngày liền, gia đình không làm sao mời cô ăn cơm được. Không một ai hiểu nổi làm sao cô bé không chết đói, cho đến khi những người Anhđiêng, những người biết tất cả vì họ nhẹ nhàng chạy đi chạy lại khắp nhà, đã phát hiện ra rằng Rêbêca không thích ăn cơm mà trái lại chỉ thích ăn đất ẩm ngoài sân và đất vách do cô ta dùng ngón tay cậy ra từ các bức tường. Rõ ràng là cha mẹ cô hoặc bất kì người nào nuôi dưỡng cô bé từng quở mắng nó vì cái tật xấu ấy bởi thế cô bé đã ăn vụng với ý thức rõ ràng đó là một tội lỗi.
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 12:04 pm

Cô bé cứ lén lấy những mảng đất vách giấu đi để ăn khi không có ai nhìn thấy. Từ đó trở đi người ta càng để ý cô bé kỹ hơn. Người ta đổ mật bò cái xuống nền sân và tẩm nước ớt cay lên các bức tường, đinh ninh tin rằng bằng những phương pháp này có thể trì được cái tật xấu nguy kịch. Nhưng cô gái lại tinh khôn và khéo léo tìm cách giấu đất để ăn, do đó buộc Ucsula phải sử dụng các biện pháp hữu hiệu hơn nữa. Bà lấy nước cam hoà lẫn với bột đại hoàng cho vào một cái mếu rồi phơi sương thâu đêm và sáng hôm sau vào lúc ăn sáng, bà cho cô bé uống một cốc nước ấy. Dù cho không ai bảo với bà rằng cái thứ này là một phương thuốc đặc hiệu dùng để trị bệnh ăn đất, bà nghĩ rằng bất kỳ thứ nước đắng nào vào bụng lúc dạ dầy đói meo có tác dụng đến buồng gan. Mặc dù mắc bệnh còi xương, Rêbêca rất dữ tợn và rất khỏe đến mức phải vật ngửa cô bé như vật ngửa con bê để cho uống thuốc và hầu như người ta không thể ghìm được chân nó giãy đạp và không thể bưng miệng nó lại để khỏi buột ra những âm thanh khó hiểu kèm với những cú cào cấu và nhổ nước bọt mà theo như những người Anhđiêng thì đó là những lời tục tằn nhất có thể nhận ra trong ngôn ngữ thổ dân. Khi biết điều đó, Ucsula phải dùng đến cả đòn roi trong lúc cho cô bé uống thuốc. Sẽ chẳng bao giờ xác định được bột đại hoàng hay nhũng chiếc roi da, hoặc cả hai thứ cùng phối hợp là cái phương thuốc đưa đến hiệu nghiệm, nhưng thực tế cho thấy rằng trong ít tuần, Rêbêca đã bắt đầu có những dấu hiệu chứng tỏ cô bé đang khỏi bệnh. Rêbêca tham gia các trò chơi của Accađiô và Amaranta là những đứa trẻ đón nhận cô như đón nhận một người chị cả, và cô ăn rất ngon miệng bởi biết sử dụng thành thạo các đồ dùng ăn uống. Cô bé cũng nhanh chóng chứng tỏ rằng mình nói tiếng Tây Ban Nha cũng lưu loát như nói tiếng của những người Anhđiêng, rằng cô có khả năng thích hợp với công việc chân tay. Cô bé hát theo nhạc van do đồng hồ phát ra với lời ca rất hay do chính cô ứng khẩu. Chẳng bao lâu cô được nhận là một thành viên nữa của gia đình. Ucsula yêu mến cô hơn cả chính các con mình và cô bé gọi Amaranta và Accađiô là các em, gọi Aurêlianô là chú, gọi Hôsê Accađiô Buênđya là ông.
Vậy là cuối cùng cô bé rất xứng đáng mang tên Rêbêca Buênđya, một cái tên duy nhất của cô và cô kiêu hãnh mang nó trong suốt cuộc đời mình cho đến hơi thở cuối cùng.
Có một đêm, ấy là vào thời kỳ Rêbêca chữa khỏi tật ăn đất và được đưa vào ngủ cùng phòng với những đứa trẻ khác, cô gái Anhđiêng vẫn thường ngủ chung phòng với chúng bỗng nhiên thức giấc và nghe thấy có tiếng động khác thường. Cô gái thảng thốt ngồi dậy cứ nghĩ rằng có con vật nào đó đã chui vào phòng và lúc ấy cô ta nhìn thấy Rêbêca ngồi trên ghế xích đu đang mút ngón tay với đôi mắt sáng như mắt mèo trong đêm đen.
Hoảng hốt trước căn bệnh nguy hiểm, lo lắng cho nỗi bất hạnh của số phận mình, Visitaxiôn nhận ra trong đôi mắt ấy những triệu chứng của một thứ bệnh mà sự đe dọa của nó đã buộc họ, cô và em trai cô, mãi mãi phải vĩnh biệt cái vương quốc lâu đời, nơi họ từng là công chúa và hoàng tử. Đó là bệnh dịch mất ngủ.
Cataurê, em trai của Visitaxiôn, đêm ấy đã bỏ trốn khỏi nhà. Bà chị anh ở lại bởi vì trái tim định mệnh của chị đã chỉ cho chị biết rằng thứ bệnh nguy hiểm chết người ấy sẽ bằng mọi cách theo riết chị đến tận cùng trời cuối đất. Không một ai hiểu được nỗi lo lắng của Visitaxiôn. "Nếu chúng ta không ngủ được thì càng tốt", Hôsê Accađiô Buênđya vui vẻ nói, "như thế cuộc sống sẽ càng có ích đối với chúng ta hơn". Nhưng cô gái Anhđiêng đã giải thích cho họ rằng điều đáng sợ nhất của bệnh mất ngủ không phải là khả năng không thể ngủ được, bởi vì cơ thể ta không cảm thấy mệt mỏi, mà là vì nếu không chạy chữa kịp thời, nhất định sẽ dẫn tới bệnh còn nguy kịch hơn, đó là bệnh mất trí nhớ. Nghĩa là khi bệnh nhân đã quen với trạng thái mất ngủ thì những ký ức tuổi thơ sẽ bị xoá khỏi trí thớ của anh ta, sau đó đến tên và ý nghĩa của các sự vật, rồi cuối cùng đến lượt bản thể của con người và hơn nữa ngay cả ý thức về chính bản thân mình, đều bị xoá khỏi trí nhớ của anh ta để rồi tất cả đều chìm đắm trong trạng thái đần độn chưa từng có trong quá khứ. Hôsê Accađiô Buênđya cảm thấy chết cười được, đã nhận xét rằng cô gái đang nói về một trong những thứ bệnh do thói mê tín của những người Anhđiêng phía ra. Song, Ucsula, để đề phòng, đã cẩn thận cách ly Rêbêca khỏi đám trẻ. Mấy tuần sau đó khi nỗi lo lắng của Visitaxiôn lắng dịu xuống thì Hôsê Accađiô Buênđya trải qua một đêm trằn trọc trên giường không tài nào ngủ được. Ucsula, lúc ấy cũng đã thức giấc, hỏi ông làm sao vậy và ông đã trả lời bà: "Lại một lần nữa tôi nghĩ đến Pruđênxiô Aghila, bà ạ". Cả hai vợ chồng đều không ngủ lấy một phút nhưng ngày hôm sau họ đều thấy khoẻ mạnh đến mức quên luôn cái đêm mất ngủ. Vào giờ ăn cơm trưa, Aurêlianô thảng thốt kể rằng cậu vẫn thấy khoẻ mạnh mặc dù đêm qua thức suốt để mạ vàng chiếc cặp tóc, một tặng phẩm cậu nghĩ sẽ tặng mẹ nhân ngày sinh của bà. Không một ai trong gia đình tỏ ra lo lắng cho mãi tới ngày thứ ba, vào giờ đi ngủ họ vẫn không cảm thấy buồn ngủ, và chỉ đến lúc ấy mọi người mới vỡ nhẽ rằng đã hơn năm mươi giờ liền họ không hề chợp mắt.
- Bọn trẻ con cũng tỉnh như sáo, - cô gái Anhđiêng nói với niềm tin chắc vào định mệnh không sao tránh khỏi. - Một khi bệnh dịch lây đến thì chẳng một ai thoát được cả.
Quả nhiên bệnh mất ngủ đã lan tràn tới đây. Ucsula nhờ học mẹ mình mà biết được một số cây có tác dụng chữa lành bệnh, đã vò lá cây phụ tử lấy nước cho tất cả mọi người uống nhưng không công hiệu, không một ai ngủ được mà trái lại cả ngày hom đó mọi người đều mơ trong khi thức. Trong trạng thái tỉnh táo mà mơ màng ấy, không những người ta chỉ nhìn thấy những bóng hình trong chính giấc mơ của mình mà còn nhìn thấy cả những bóng hình trong giấc mơ của người khác. Cứ như thể nhà này đông nghịt khách khứa. Ngồi trên chiếc ghế xích đu đặt ở trong xó bếp, Rêbêca mơ thấy một người đàn ông rất giống nó, mặc bộ đồ lanh trắng, nơi cổ gài một chiếc cúc vàng, mang đến cho nó một cành hoa hồng. Một người phụ nữ có đôi bàn tay nuột nà đi bên ông đã ngắt một bông hồng, rồi cài lên mái tóc cô bé. Ucsula hiểu rằng đó là cha mẹ của Rêbêca, nhưng dẫu rằng đã cố sức để nhận mặt bà vẫn phải thừa nhận rằng chưa bao giờ nhìn thấy họ. Trong khi đó, do một sơ suất đáng tiếc mà Hôsê Accađiô Buênđya sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho mình: những chiếc kẹo nặn hình con giống sản xuất trong nhà này vẫn tiếp tục được mang ra chợ bán. Trẻ con và người lớn thích thú mút những chiếc kẹo hình con gà béo màu xanh đã nhiễm bệnh mất ngủ, những con cá màu hồng đã nhiễm bệnh mất ngủ, những chú ngựa con màu vàng đã nhiễm bệnh mất ngủ, do đó buổi bình minh ngày thứ hai đã bắt gặp cả làng đang thức. Đầu tiên không một ai hốt hoảng. Trái lại, tất cả đều vui sướng vì không ngủ được, bởi lúc đó có rất nhiều việc cần phải làm đến mức hầu như họ không có đủ thời gian. Họ làm lụng quá nhiều do đó lập tức chẳng còn gì để làm và vào lúc ba giờ sáng tất cả đều khoanh tay ngồi đếm từng nốt nhạc van vang lên từ những chiếc đồng hồ. Những người muốn ngủ, không vì họ cảm thấy mệt mỏi mà chỉ vì nhớ giấc ngủ thường ngày thôi, đã phải vận dụng hết các phương thức cần thiết để gọi giấc ngủ đến với mình, nhưng thảy đều vô hiệu. Họ tụ tập lại để chuyện phiếm không hề ngừng nghỉ, để lặp đi lặp lại chỉ một câu chuyện gây cười trong hàng giờ và hàng giờ liền, để làm cho mọi người tức phát điên lên với câu chuyện về con gà Capôn vốn là một trò chơi không bao giờ kết thúc, trong đó người kể chuyện hỏi các vị muốn tôi kể chuyện con gà Capôn không và khi người nghe trả lời rằng. có thì người kể chuyện nói rằng ông ta không yêu cầu bảo rằng có mà rằng các vị muốn tôi kể chuyện con gà Capôn không và khi người nghe trả lời rằng không thì người kể chuyện nói ông ta không yêu cầu trả lời rằng không mà rằng các vị có muốn tôi kể chuyện con gà Capôn chăng và khi người nghe im lặng thì ông ta nói ông ta không yêu cầu im đặng mà rằng có phải các vị muốn tôi kể chuyện con gà Capôn và không một ai có thể bỏ đi được bởi người kể chuyện sẽ nói rằng ông ta không yêu cầu bỏ đi mà rằng phải chăng các vị muốn tôi kể chuyện con gà Capôn, rồi cứ như thế lặp đi lặp lại trong eái vòng luẩn quẩn kéo suốt những đêm dài.
Khi Hôsê Accađiô Buênđya nhận ra bệnh dịch đã lây lan khắp làng, ông liền họp các chủ hộ lại để giải thích về bệnh mất ngủ theo đúng như hiểu biết của mình. Các chủ hộ đều thống nhất sử dụng biện pháp cần thiết để ngăn chặn tai ương này khỏi tràn lan sang các cư dân khác ở vùng đầm lầy. Thế là người ta tháo khỏi cổ dê những quả chuông nhỏ mà những người Arập mang đến đây đổi lấy những chú vẹt đuôi dài rồi để chúng ở ngay cổng làng chuẩn bị cho những ai không thèm để ý tới những lời khuyên, những lời van xin tha thiết của người gác cổng mà cứ một mực xin vào thăm làng Macônđô. Tất cả những người lạ mặt đi lại trên các nẻo đường Macônđô trong thời gian ấy đều phải rung chuông để báo cho những người bệnh biết họ là người khoẻ mạnh. Trong thời gian ở lại đây, bọn họ không được ăn uống bất cứ thứ gì vì không còn nghi ngờ gì nữa dịch bệnh lây lan qua đường miệng, và hơn nữa đồ ăn thức uống đều đã nhiễm bệnh mất ngủ. Bằng hình thức này bệnh dịch đã bị thu hẹp lại trong phạm vi của làng. Biện pháp kiên quyết ấy chính là biện pháp dùng trong thời kỳ kiểm dịch, và nó được duy trì cho đến ngày tình trạng mất ngủ được xem như là một hiện tượng bình thường và cuộc sống được tổ chức sao cho công việc làm ăn lấy lại nhịp điệu vốn có của nó và không một ai phải bận tâm tới việc đi ngủ, coi đó như một thói quen vô tích sự.
Aurêlianô là người đầu tiên tìm ra biện pháp chống lại bệnh giảm trí nhớ. Ngẫu nhiên mà cậu tìm ra thôi. Vì là người mất ngủ lâu ngày nhất trong làng, cậu đã học tập để có được trình độ tinh xảo trong nghề kim hoàn. Có một hôm cậu đang tìm chiếc đe nhỏ để dát mỏng kim loại và bỗng nhiên cậu quên nó.
Cha cậu bảo cậu nó gọi là tas. Aurêlianô liền lấy giấy viết chữ tas rồi đem tờ giấy ấy dán lên bệ đe. Như vậy cậu tin rằng trong tương lai mình sẽ không quên tên nó nữa. Cậu cũng không ngờ rằng việc quên tên này là biểu hiện đầu tiên của bệnh đãng trí mà chỉ cho rằng chẳng qua đó là vì cái dụng cụ ấy có tên rất khó nhớ. Nhưng sau đó mấy hôm, cậu phát hiện ra rằng bản thân mình không thể nhớ nổi tên các dụng cụ trong phòng thí nghiệm. Thế là cậu viết tên chúng lên từng đồ vật một, do đó chỉ cần đọc tên là đã có thể nhận biết được chúng rồi. Khi cha cậu đem nỗi lo lắng về việc ông quên hết những kỷ niệm sâu sắc từ thời ấu thơ kể cho cậu nghe thì Aurêlianô đã giải thích phương pháp của mình cho cha hiểu, và Hôsê Accađiô Buênđya liền áp dụng phương pháp này cho mọi người trong nhà, sau đó cho tất cả dân làng. Lấy cành bài hương đã chấm mực, ông viết lên từng vật thể tên của nó: bàn, ghế, đồng hồ, cửa, tường, giường chảo rán. Rồi ông ra vườn viết lên từng con vật và từng cây một: bò cái, dê đực, lợn đực, gà mái, sắn, khoai sọ, chuối mắm. Do tìm hiểu những khả năng vô hạn của bệnh đãng trí, dần dần ông nhận thấy rằng có thể đến một ngày nào đó qua con chữ người ta sẽ nhận ra các sự vật nhưng sẽ không nhớ được công dụng của chúng trong đời sống. Vậy là cần phải viết cho rõ ràng hơn. Tấm bảng viết treo trên cổ con bò cái là một bằng chứng tiêu biểu cho hình thức dân chúng Macônđô đã sử dụng để chống lại bệnh đãng trí. Đây là con bò cái, tất cả các buổi sáng cần phải vắt sữa và đối với sữa cần phải đun sôi lên để pha với cà phê và làm cà phê sữa. Như vậy dân làng cứ sống trong một thực tại trơn chuồi chuội không thể khắc vào trí nhớ, được nhận bắt thoáng qua bởi những từ ghi trên giấy nhưng nó sẽ biến đi khi người ta quên mất ý nghĩa của các từ.
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 12:15 pm

Ngay ở cổng vào làng Macônđô, một tấm biển được dựng lên viết: Macônđô và trên con đường trung tâm của làng cũng dựng lên một tấm biển còn to hơn nữa đề "Thượng đế tồn tại". Để ghi nhớ các đồ vật cũng như các loại tình cảm của con người, trong các nhà cũng có treo các bảng đề tên từng đồ vật và từng loại tình cảm một. Nhưng hệ thống nhớ ấy đòi hỏi quá nhiều sự quan sát và quá nhiều sự nỗ lực của bộ óc đến mức rất nhiều người đã phải đầu hàng trước niềm vui của một thế giới tưởng tượng, được chính họ bịa ra mà đối với họ nó là một thế giới để an ủi hơn là một thế giới để hành động. Pila Tecnêra là người đóng góp nhiều công sức hơn vào việc phổ biến trò phỉnh phờ này khi thị cảm nhận được cách đọc quá khứ trong những lá bài cũng như trước đây qua chúng thị đọc tương lai. Bằng thủ thuật này những người mất ngủ bắt đầu sống trong một thế giới được xây dựng bởi những hình ảnh mơ hồ không xác tín trong những lá bài, là nơi ông bố nhớ lại hầu như mình là một người đàn ông rám nắng vừa đến đây vào đầu tháng tư và bà mẹ nhớ lại mình gần như một người đàn bà trẻ tóc đen tuyền, còn đeo nhãn vàng trên bàn tay trái, và là nơi một ngày sinh nhích gắn lại dường như mới vừa hôm thứ ba còn văng vẳng tiếng chim chiền chiện hót trên cây nguyệt quế. Bị thất bại trước những thủ thuật có tính chất an ủi ấy, Hôsê Accađiô Buênđya đã quyết chí làm một cái máy nhớ ông từng ao ước để nhớ những phát minh kì diệu của những người digan. Vào tất cả các buổi sáng cái máy ấy phải có khả năng duyệt lại toàn bộ những hiểu biết thu được trong cuộc sống kể từ đầu cho đến cuối. Ông tưởng tượng nó giống như một cuốn từ điển tự quay tròn mà một người ngồi ở trục, nhờ một chiếc tay quay, có thể khiến cho những tri thức về đời sống sẽ lần lượt hiện ra ngay trước mắt họ chỉ trong ít giờ đồng hồ. Ông đã viết được một vạn bốn nghìn cái phích. Cũng chính lúc ấy trên đường từ đầm lầy vào làng, xuất hiện một cụ già quái dị tay cầm một quả chuông nhỏ rung lên những âm thanh buồn buồn của kẻ ngái ngủ, vai vác một va li căng phồng có đai thừng chằng buộc cẩn thận, đẩy một chiếc xe nhỏ phủ kín những mụn vải thâm. Cụ đi thẳng đến nhà Hôsê Accađiô Buênđya.
Khi mở cửa cho cụ, Visitaxiôn không nhận ra cụ và cô nghĩ rằng cụ già đến đây định bán thứ gì mà không biết rằng không thể bán được bất cử thứ gì ở cái làng đang ghìm trong bệnh đãng trí khủng khiếp vô phương cứu chữa này. Đó là một cụ già cao tuổi lắm. Mặc dù tiếng nói của cụ thều thào đứt quãng, bàn tay cụ run lẩy bẩy như không thừa nhận sự tồn tại của các vật thể nhưng rõ ràng cụ là người đến từ miền đất người ta vẫn có thể ngủ được và nhớ được. Hôsê Accađiô Buênđya bắt gặp cụ ngồi trong phòng khách; tay quạt chiếc mũ rách đã vá lại, mắt đang mải đọc những tờ giấy viết chữ dán trên các bức tường. Ông cung kính chào cụ để khỏi thất lễ vì sợ rằng đó là một người quen lâu ngày không gặp lại và hiện giờ ông chưa nhận ra. Nhưng vị khách đã nhận ra ông không thành tâm. Cụ cảm thấy mình bị chủ nhà quên nhưng đó không phải là sự lãng quên do vô tâm mà là một sự lãng quên quái ác và vô phương cứu chữa do không thể tập trung trí nhớ được, một sự lãng quên cụ từng biết rất rõ bởi vì đó chính là sự lãng quên của cái chết.
Cụ mở chiếc va li chật ních những thứ không thiếu được, rồi cụ lấy ra một chiếc túi dựng các chai lọ. Cụ cho Hôsê Accađiô Buênđya uống tuột thứ nước có mùi dễ chịu và lập tức trong trí nhớ của ông bừng sáng. Mắt ông nhoà đi vì lệ trước khi ông kịp nhìn ra mình đang ở trong căn phòng bừa bãi những đồ vật bị viết tên, trước khi ông kíp cảm thấy hổ thẹn vì những điều ngu ngốc được viết trên tường với tất cả lòng thành kính và hơn thế nữa, trước khi ông nhận ra người mới đến trong ánh sáng tươi hững của niềm vai. Người đó là Menkyađêt.
Trong lúc Macônđô mở hội ăn mừng trì nhớ bình phục thì Hôsê Accađiô Buênđya và Menkyađêt đánh bóng tình bạn cũ của họ lâu nay bị thời gian phủ bụi. Người digan quyết định ở lại làng này. Đúng là cụ ở trong cõi chết và đã chạy trốn về đây vì không chịu nổi nỗi cô đơn. Bị bộ tộc mình ruồng bỏ, bị tướt mất năng lực siêu phàm, tất cả những thứ đó như một sự trừng phạt đối với lòng trung thành của cụ trước cuộc đời, cụ đã quyết chí chạy trốn đến đây, một xó xỉnh của thế giới mà thẩn chết chưa phát hiện ra và cụ hiến thân cho nghề chụp ảnh đaghe(1). Hôsê Accađiô Buênđya chưa bao giờ nghe nói về phát minh này. Nhưng khi ông nhìn thấy chính mình và gia đình mình với giây lút đời đời hiện hình trên một tấm kim loại óng ánh, thì ông đứng thẩn người ra. Vẫn còn lại một bức ảnh trên tấm kim loại đã hoen rỉ thuộc thời kỳ ấy cho thấy Hôsê Accađiô Buênđya xuất hiện với mái tóc xoăn điểm sương, một chiếc cúc đồng đóng kín cổ cồn áo sơmi, và với vẻ nghiêm trang đầy sợ sệt khiến cho Ucsula cười ngặt nghẽo mà miêu tả ông như "một tướng quân đang hãi hùng". Quả nhiên là Hôsê Accađiô Buênđya đang hoảng hốt trong buổi sáng tháng chạp khi người ta chụp ảnh, bởi vi lúc ấy ông nghĩ rằng dân chúng sẽ mất dần đi theo giây phút hình ông hiện trên tấm kim loại. Bởi một sự đảo lộn kì dị của thói quen, Ucsula là người dã khiến ông nẩy sinh ý nghĩ ấy cũng như bà là người quên đi những mặc cảm khó chịu trước đây, đã đồng ý để cho Menkyađêt ở lại trong nhà mình mặc dù chẳng bao giờ cho phép ông chụp ảnh bà bởi (theo đúng như lời bà) bà không muốn cử tồn tại như thế để giễu các cháu mình.
Buổi sáng ấy bà mặc đẹp đến thăm đám trẻ, thoa phấn cho chúng rồi cho mỗi đứa uống một thìa cháo tuỷ để chúng có thể đứng yên không nhúc nhích trong hai phút đồng hồ trước máy chụp ảnh của Menkyađêt. Trong bức ảnh đaghe chụp toàn gia đình đã mất từ lâu, Aurêlianô mặc đồ dạ đen đứng giữa) Amaranta và Rêbêca. Cậu mang vẻ buồn buồn và đôi mắt nhìn sắc sảo mà nhiều năm sau này khi đứng trước đội hành hình chúng vẫn nguyên vẹn, những lúc đó cậu vẫn chưa có được dự cảm về số phận mình. Cậu đã là một thợ kim hoàn lành nghề được cả vùng ngưỡng mộ. Trong xưởng thủ công được đặt cùng với phòng thí nghiệm ồn ĩ của Menkyađêt, dường như cậu đã chạy trốn vào một thời đại khác để làm việc đến mức không còn nghe thấy tiếng cậu thở; trong khi đó cha cậu và Menkyađêt lớn tiếng tranh luận với nhau về những lời tiên tri của Nôstrađam.
Những lời ấy vang lên giữa những tiếng va chạm của bình và cốc đựng các dung dịch, và nỗi bất hạnh của axit đổ và muôi bạc bị rơi vãi từng lúc từng lúc do những cú động cùi tay và trượt chân gây nên. Sự toàn tâm toàn sức hiến dâng cho công việc, cái quan niệm đúng đắn hướng dẫn mọi hứng thú của cậu, dã cho phép cậu trong một thời gian ngắn thu được khoản tiền lớn hơn khoản tiền của Ucsula thu được nhờ những chiếc kẹo nặn hình con giống rất ngon lành, nhưng cả bàn dân thiên hạ ai ai cũng lấy làm lạ rằng tuy cậu đã là một người đàn ông thực thụ thế mà vẫn chưa biết đến đàn bà. Thực tình cậu vẫn chưa hề cùng ai.
Mấy tháng sau đó, cụ Phranxixcô - Con Người, một khách giang hồ gần hai trăm tuổi vẫn thường qua lại Macônđô để phổ biến các bài hát do chính cụ đặt ra, đã trở lại làng. Trong các bài hát này, cụ Phranxixcô - Con Người kể lại tường tận những điều xảy ra ở các đàng trong hành trình của mình, kể từ làng Manaurê đến các hang cùng ngõ hẻm thuộc vùng đầm lầy, vậy là nếu ai muốn nhắn gửi điều gì hoặc muốn loan báo một sự kiện nào đó thì cứ việc trả cụ hai xu để cụ đưa nó vào chương trình của mình. Nhờ vậy mà một đêm nọ Ucsula nghe các bài hát của cụ với hy vọng chúng sẽ nói về Hôsê Accađiô, đã biết tin mẹ mình quá cố một cách ngẫu nhiên thôi. Cụ được gọi là Phranxixcô - Con Người là vì trong một cuộc thi hát đối đáp cụ đã đánh bại con quỉ, vả lại cũng không một ai biết tên thật của cụ. Trong lúc dịch mất ngủ hoành hành ở làng Macônđô, cụ lặng lẽ biến mất và bây giờ không một lời báo trước cụ lại có mặt ở đây trong cửa hàng của bác Catarinô. Cả làng đều kéo đến nghe cụ để xem có gì mới xảy ra trên thế giới này. Trong dịp này, cùng đến với cụ còn có một người đàn bà béo mập ngồi trên ghế xích đu được bốn phu Anhđiêng khiêng và được một cô gái da lai vẻ cô đơn cầm ô che nắng cho. Đêm ấy Aurêlianô đến cửa hàng bác Catarinô. Cậu thấy cụ Phranxixcô - Con Người, như một con kỳ nhông hoá đá, ngồi giữa đám người tò mò đang nghe cụ kể tích… Với giọng hát thều thào được cây đàn phong cầm cũ kỹ đệm, cây đàn này cụ được ngài Oante Rahch(2) tặng cho ở đảo Goadana. Cụ hát để kể lể các tin tức, trong khi đó đôi bàn chân to, thô, nứt nẻ bởi phải cuốc bộ qua các mỏ diêm sinh, cùng giậm liên hồi để đánh nhịp. Mụ Tú bà ngồi trên ghế xích đu, tay phe phẩy quạt ở trước cửa phía cuối phòng nơi có một số người đàn ông vào ra. Với bông hồng nỉ giắt trên mang tai, bác Catarinô bán những cốc nước Goarapô(3) - gần từng người một đặt tay mình lên người họ vào đúng cái chỗ không nên. Đêm về khuya, nóng bức không thể chịu được. Aurêlianô ngồi nghe tin tức cho đến hết chương trình mà vẫn không thấy điều gì bổ ích đối với gia đình mình. Đang lúc cậu sửa soạn để về nhà thì mụ Tú bà chỉ tay ra hiệu, bảo cậu:
- Cậu cũng vào đi, - mụ nói, - chỉ tốn kém có hai hào thôi!
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 12:17 pm

Aurêlianô bỏ đồng hai hào vào cái đĩa mụ kẹp nơi bẹn rồi bước vào phòng mà không biết để làm gì. Cô bé da lai đang trần truồng nằm trên giường với đôi vú hệt như vú chó. Đêm ấy trước lúc Aurêlianô vào đã có sáu mươi ba người đàn ông qua phòng này rồi. Không khí trong phòng, vì đã có quá nhiều người qua lại và bị ngào trong mồ hôi và hơi thở, bắt đầu đông đặc lại nhuyễn thành bùn. Cô bé lột chiếc ga trải giường ướt sũng và nhờ Aurêlianô cầm hộ một đầu. Nó nặng chình chịch. Hai người vặn hai đầu vắt tấm vải trải giường cho đến khi kiệt nước. Hai người lật nghiêng chiếc giường, mồ hôi dòng dòng chảy về phía nghiêng để rơi xuống sàn nhà. Aurêlianô khao khát mong mỏi công việc này sẽ không bao giờ kết thúc. Về mặt lý thuyết cậu đã biết nghệ thuật làm tình, nhưng vì gối đã mỏi nên không thể đứng thẳng được, và mặc dù da mình đã nổi gai gà và nóng hầm hập cậu vẫn không thể kìm được những cú trung tiện đang đòi hỏi mau chóng được thoát ra ngoài. Khi sửa sang xong giường đệm, cô bé lệnh cho cậu cởi quần áo, thì cậu ngờ nghệch giải thích: "Người ta bảo tôi vào. Người ta bảo tôi hãy bỏ hai hào vào đĩa đựng tiền và không được chậm trễ". Cô gái hiểu được nỗi lo lắng của cậu. "Nếu như anh bỏ thêm hai hào nữa ở cửa ra, anh có thể ở lại thêm ít phút nữa", cô dịu dàng nói.
Aurêlianô cởi quần áo, vẻ khổ sở vì xấu hổ, không tài nào rũ bỏ được ý nghĩ cho rằng cái thân xác lõa lồ của mình sẽ không địch nổi cái thân xác cường tráng của ông anh mình. Mặc cho cô gái cố gắng khêu gợi, cậu vẫn cảm thấy đơn độc, đơn độc đến khủng khiếp. "Tôi sẽ bỏ thêm hai hào nữa" với giọng chán nản cậu nói thế. Cô bé lặng lẽ cám ơn cậu. Lưng cô bé đỏ lừng lựng. Da cô bọc lấy xương để lộ từng cái xương sườn một và hơi thở của cô gấp gáp rối loạn đầy vẻ mệt mỏi. Hai năm trước đây, ở một làng xa tít mù, cô bé ngủ quên không tắt ngọn đèn nến và khi choàng tỉnh dậy cô đã ở ngay cạnh lửa cháy. Cái ngôi nhà nơi cô sống với bà nội, vốn là người nuôi cô từ tấm bé, đã biến thành tro tàn. Từ đó trở đi, người bà mang cô bé đi hết làng này sang làng khác, bắt cô phải ngủ với đàn ông với giá hai hào một lần để có một số vốn ngõ hầu bù lại toàn bộ giá trì ngôi nhà bị cháy. Theo những tính toán của cô gái, thì cô còn thiếu hơn mười năm mà đêm nào cũng phải hiến thân cho đủ số bảy mươi thằng đàn ông, bởi vì ngoài số tiền phải trả cho bà nội, cô còn phải kiếm đủ tiền để trang trải cho việc đi lại, cho việc ăn uống của hai bà cháu, và tiền công cho những người Anhđiêng khiêng chiếc ghế xích đu. Khi mụ Tú bà gõ cửa lần thứ hai, Aurêlianô ra khỏi phòng mà vẫn chưa kịp hành sự, đau đớn đến muốn khóc lên được. Đêm ấy, cậu không ngủ, chỉ nghĩ đến cô gái trong tình cảm vừa yêu vừa thương hại. Cậu cảm thấy vừa yêu thương lại vừa muốn che chở cô gái. Đó là thứ tình cảm da diết không thể dừng được. Vào lúc trời rạng sáng, người mệt rã rời vì mất ngủ và vì sốt, cậu quyết định một quyết định lành mạnh, sẽ cưới cô gái để giải phóng cô khỏi sự cai quản của người bà và để cùng cô hưởng trọn những đêm hoan lạc mà cô vẫn thường phải chia sẻ cho bảy mươi thằng đàn ông. Nhưng, vào lúc mười giờ sáng, khi cậu đến cửa hàng bác Catarinô thì cô gái đã đi khỏi làng.
Thời gian xoa dịu dần ý định ngây thơ của Aurêlianô nhưng nó lại khắc sâu thêm mặc cảm về sự thất bại của mình. Cậu trốn vào công việc. Cậu quyết chí ở vậy một đời để chôn vùi ý nghĩ hổ thẹn tự cho mình là đồ vô tích sự. Trong khi đó Menkyađêt đã làm xong công việc ghi lên các tấm phim của mình tất cả những gì có thể ghi hình ở làng Macônđô và cụ đã bỏ mặc buồng tối cho những say mê của Hôsê Accađiô Buênđya, người đã quyết định sử dụng nó để giành lấy một thí nghiệm khoa học về sự tồn tại của Thượng đế. Bằng một quá trình phức tạp trình bày những bức ảnh chụp được ở những địa điểm khác nhau trong nhà, ông tin chắc rằng sớm hay muộn sẽ có một tấm ảnh Thượng đế, nếu quả thật Thượng đế tồn tại, rồi cùng một lúc sẽ kết liễu tất cả những phỏng đoán về sự hiện hữu của Người. Menkyađêt ngày một nghiên cứu sâu những lời thuyết giảng của Nôstrađam. Cụ làm việc cho đến chiều tối, phát ngột trong chiếc áo nỉ khoác ngoài đã bạc màu, với đôi bàn tay chim sẻ nhỏ xíu của mình mà những chiếc nhẫn đeo trên các ngón tay đã mất vẻ sáng bóng của các thời trước đây, cụ vẽ nguệch ngoạc lên những tờ giấy. Có một đêm cụ tưởng rằng mình đã bắt gặp được một lời tiên tri về tương lai của làng Macônđô. Nó có thể sẽ là một thành phố sáng rực rỡ, với những toà nhà pha lê đồ sộ, là nơi sẽ không còn một dấu tích nào của dòng dõi nhà Buênđya. "Đó là một sự nhầm lẫn", Hôsê Accađiô Buênđya nổi giận nói. "Đó không phải là những tòa nhà pha lê, mà là những tòa nhà làm bằng nước đá, như chính tôi đã thấy trong mộng, và cho dù hàng bao nhiêu thế kỷ sau, luôn luôn và lúc nào cũng vẫn có một Buênđya". Trong ngôi nhà quái gở ấy, Ucsula là người cố gắng duy trì không khí bình thường nhờ việc khuếch trương nghề buôn bán những chiếc kẹo nặn hình con giống, với một lò nướng bánh trong một đêm đã sản xuất ra hàng sọt, hàng sọt bánh mì, và hàng lô những chiếc bánh puđinh, bánh trửng, bánh bích qui mà chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ chúng đã tản mác đi khắp các nẻo đường mòn thuộc miền đầm lầy. Dù tới tuổi được quyền nghỉ ngơi, nhưng bà lại hoạt bát hơn. Quá bận rộn trong các công việc sinh nhiều lợi ấy, đến mức trong một buổi chiều nọ khi cô gái Anhđiêng giúp bà ngào mật vào bột, bà đã nhìn ra sân và bắt gặp hai thiếu nữ lạ, xinh đẹp đang ngồi thêu bên khung thêu dưới ánh hoàng hôn. Đó là Rêbêca và Amaranta. Họ vừa đoạn tang bà ngoại, một cái tang được họ kiên trì để trở trong ba năm ròng và giờ đây bộ quần áo màu sặc sỡ dường như đã đặt họ vào một vị trí mới trong cuộc đời.
Hoàn toàn trái với những gì có thể chờ đợi cô trong tương lai, Rêbêca là cô gái đẹp nhất. Cô có nước da trắng như ngó cần, đôi mắt to và sâu thẳm, đôi bàn tay khéo léo dường như đang dệt những sợi chỉ vô hình trên một bức thảm thêu. Amaranta, cô gái bé hơn, tuy có kém phần duyên dáng tí chút, nhưng lại có vẻ cao nhã tự nhiên, một sự thanh thản nội tâm của bà ngoại đã quá cố. Bên cạnh hai cô gái là Accađiô. Mặc dù đã có được sức vóc của cha mình, Accađiô vẫn là một chú nhóc con. Cậu quyết định học nghề kim hoàn dưới sự hướng dẫn của Aurêlianô, người ngoài việc dạy nghề còn dạy chú bé học đọc và viết. Ngay lập tức Ucsula nhận ra rằng nhà bà rồi sẽ chật chội, rằng con cái của bà đã đến tuổi dựng vợ gả chồng và sẽ có con, do thiêu chỗ ở chúng sẽ buộc phải ly tán. Vậy là bà móc số tiền dành dụm được trong nhiều năm làm ăn vất vả, giao kèo hợp đồng với các khách hàng của mình, và khởi công mở rộng ngôi nhà.
Bà quyết định sẽ xây hai phòng khách trong đó có một phòng đầy đủ tiện nghi và thoáng mát hơn để dùng vào công việc hàng ngày, một phòng ăn đủ rộng kê chiếc bàn ăn to với mười hai chỗ ngồi để gia đình và khách khứa cùng ăn một thể, chín phòng ngủ đều mở cửa sổ thông ra sân và một hành lang dài có bao lơn đặt các chậu cây dương xỉ và chậu cây thu hải đường, bên ngoài là một vườn hồng che ánh nắng gay gắt buổi ban trưa. Bà cũng quyết định phá nhà bếp cũ để xây dựng hai lò bánh; phế kho ngô cũ nơi Pila Tecnêra đã xem hậu vận cho Hôsê Accađiô qua những lá bài để xây một nhà kho lớn gấp hai lần đủ dự trữ lương ăn cho rất nhiều năm. Bà quyết định dựng một nhà tắm nam và một nhà tắm nữ và ở cuối sân, một tàu ngựa lớn, một chuồng gà thưng lưới thép, một chuồng vắt sữa bò, và một chuồng chim mở rộng cửa đón những chú chim không đường kiếm ăn có thể tuỳ thích đến ở. Được hàng chục thợ mộc và thợ nề theo sau, như thể bà nhiễm phải cơn sốt vàng của chồng mình, Ucsula sắp xếp vị trí cho ánh sáng và đường thông gió, phân chia các khoảng không mà vẫn không quên các ranh giới của chúng. Ngôi nhà khởi thuỷ của các bậc sáng nghiệp bỗng chật ních cưa đục và vật liệu xây dựng, và những người công nhân mệt mỏi vã mồ hôi đang yêu cầu tất cả những người khác đừng làm đảo lộn các đồ vật mà không hay biết rằng chính họ mới là những người đang làm đảo lộn hết thảy. Bọn họ phát điên lên vì chiếc tải đựng xương người với tiếng kêu lộc cộc, lộc cộc lộc cộc cứ theo riết họ đi khắp nơi. Trong quang cảnh khó chịu cứ phải thở hít mùi vôi nồng nặc và mùi nhựa đường, không một ai hiểu được vì sao từ trong lòng đất lại nổi lên một ngôi nhà không chỉ lớn chưa từng thấy trong làng, mà còn là ngôi nhà hiếu khách và mát mẻ chưa từng có trong khắp vùng đầm lầy này. Hôsê Accađiô Buênđya những tưởng sẽ làm cho Thượng đế chí tôn phải giật mình trước khung cảnh nhiều thay đổi to lớn ấy, lại là người hiểu được điều đó ít nhất. Khi ngôi nhà sắp sửa hoàn thành thì Ucsula đã lôi ông ra khỏi thế giới mơ mộng để báo cho ông hay rằng đã có lệnh buộc bức tường mặt tiền của mọi nhà đều phải quét vôi xanh chứ không được quét vôi trắng như dân làng vốn ưa thích. Bà chìa cho ông xem mảnh giấy ghi cái mệnh lệnh chính thức ấy. Hôsê Accađiô Buênđya, vẫn chưa hiểu điều bà vợ mình nói, đang cố đọc chữ ký:
- Người này là ai vậy? - Ông hỏi.
- Quan thanh tra đấy, - Ucsula buồn bã trả lời. - Người ta đồn ằng ông ấy là một nhà chức trách mới do chính phủ phái tới.
Đông Apôlina Môscôtê, Quan thanh tra, đã lặng lẽ đến làng Macônđô. Ngài xuống xe và ở trong khách sạn Giacôp do một trong những người Arập đầu tiên đến đây đổi đồ vật lấy vẹt đuôi dài dựng nên. Ngày hôm sau ngài thuê luôn một phòng mở cửa ra đường chỉ cách nhà của Buênđya hai ô phố. Ngài bày biện một chiếc bàn và một chiếc ghế mua của Giacôp, treo tấm quốc huy do ngài mang theo lên tường và trên cửa một chiếc biển đề: Quan thanh tra. Công việc đầu tiên của ngài là ra lệnh cho các nhà trong làng phải quét vôi xanh để mừng ngày độc lập. Hôsê Accađiô Buênđya, tay cầm bản sao tờ lệnh, bắt gặp ngài ngủ trưa trên chiếc võng mắc trong một căn phòng bày biện và trang trí sơ sài. "Ngài là người đã viết tờ giấy này?", ông hỏi. Đông Apôlina Môscôtê, một người đàn ông chín chắn, vẻ hút nhát, mặt đỏ nhừ, đã trả lời rằng đúng thế. "Nhân danh cái gì mà ông viết nào?" , Hôsê Accađiô Buênđya lại hỏi tiếp.
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
NatalieChang
Quản Lí
Quản Lí
NatalieChang


Nữ
Tổng số bài gửi : 325
Age : 32
Đến từ : a lovely house
Job/hobbies : student
Humor : romantic
Registration date : 05/07/2008

Character sheet
roll:
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Left_bar_bleue400/999TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty_bar_bleue  (400/999)

TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ EmptySun Jul 13, 2008 12:22 pm

Đông Apôlina Môscôtê tìm một tờ giấy cất trong ngăn kéo bàn chìa cho ông xem: "Tôi vừa được phong chức Quan thanh tra của làng này". Hôsê Accađiô Buênđya không thèm nhìn tờ sắc phong, nói:
- Ở làng này, chúng tôi không ra lệnh bằng giấy tờ - ông nói với vẻ bình thản, - và để ngài biết luôn một thể, chúng tôi không cần bất kỳ một Quan thanh tra nào, bởi vì ở đây chẳng có gì để mà phải thanh tra cả.
Trước thái độ cứng rắn của đông Apôlina Môscôtê, người không lúc nào to tiếng, Hôsê Accađiô Buênđya kể lại tường tận câu chuyện họ đã xây dựng làng như thế nào, chia ruộng đất như thế nào, rồi mở đường như thế nào, mở mang các nghề cần cho đời sống và sinh lợi như thế nào, không hề làm phiền lòng chính phủ và cũng chưa một ai đã làm phiền dân làng này.
"Chúng tôi sống rất hiền lành đến mức làng chúng tôi chưa hề có người chết vì bệnh tật hay vì tuổi già", ông nói: "Ngài thấy đấy làng chúng tôi vẫn chưa có nghĩa địa mà!". Ông không hề đau khổ vì chính phủ đã không giúp đỡ dân làng. Trái lại, ông lấy làm vui lòng nhận thấy cho đến lúc này chính phủ vẫn để cho dân làng tiếp tục sống như vậy, bởi vì bọn họ không tốn công hoài sức lập làng để cho kẻ khác đến lên mặt dạy họ phải làm thế này thế nọ. Đông Apôlina Môscôtê mặc chiếc áo khoác vải chéo go, màu trắng như màu quần, không lúc nào để mất cử chỉ bình tĩnh của mình.
- Vậy là nếu như ngài muốn ở lại đây, như những cư dân bình thường khác, ngài sẽ được đón tiếp nồng hậu, - Hôsê Accađiô Buênđya kết thúc, - bằng không, nếu như ngài đến để gây rối buộc dân làng phải quét vôi xanh lên tường nhà thì ngài có thể thu xếp hành lý và cút về nơi ngài khởi hành. Bởi vì, nhà tôi phải trắng như một con bồ câu.
Đông Apôlina Môscôtê tái người đi. Ngài giật lùi một bước, nghiến răng lại với vẻ sượng sùng, nói:
- Tôi báo cho ông biết rằng tôi có vũ khí.
Hôsê Accađiô Buênđya không biết tự lúc nào cái sức trai tráng bẻ gẫy sừng trâu đã dồn lên hết đôi tay mình. Túm lấy ve áo bông Apôlina Môscôtê, ông xách ngài lên ngang tầm mắt mình, nói:
- Cái này thì ta làm, - Ông nói, - bởi vì ta muốn xách sống nó và để khỏi phải ân hận suốt đời vì phải xách một xác chết.
Cứ thế xách ngài đi giữa đường cái cho đến khi tay mỏi để tuột mất ve áo, ông mới đặt ngài đứng xuống. Lúc đó Quan thanh tra đã ở trên con đường ngoài đầm lắy. Một tuần sau, ngài trở lại mang theo sáu người lính chân đất, ăn mặc rách rưới, tất cả đều mang súng hỏa mai, và một chiếc xe bò chở vợ cùng bảy cô con gái của ngài. Sau đó hai xe bò chở giường ghế bàn tủ, rương hòm và các dụng cụ nấu bếp cũng đến theo. Ngài để gia đình trọ tại khách sạn Giacốp trong khi tìm mua một ngôi nhà và tiếp tục mở lại công sở có lính gác bên ngoài.
Các bậc sáng nghiệp của làng Macônđô sẵn sàng tống khứ bọn người xâm lược đi. Cùng với các con trai lớn của mình họ đã kéo đến để tiếp sức cho quyết tâm của Hôsê Accađiô Buênđya.
Nhưng ông phản đối bởi vì theo như lời ông giải thích thì đông Apôhna Môscôtê đã trở lại đây cùng với vợ và các con gái ngài và đã là đàn ông thì không nên làm sượng mặt kẻ khác trước mặt gia quyến họ. Vậy là ông quyết định sẽ giải quyết công việc theo những thể thức êm đẹp hơn.
Aurêlianô đi cùng ông. Lúc này cậu đã để bộ ria đen vểnh lên ở hai bên mép và đã có giọng nói sang sảng mà sau này chúng là những đặc điểm khiến cậu nổi bật lên trong chiến tranh. Không mang theo vũ khí cũng không tuân lệnh bọn lính gác, cha con họ bước thẳng vào công sở của Quan thanh tra.
Đông Apôlina Môscôtê vẫn điềm tĩnh. Ngài giới thiệu với họ hai cô con gái ngẫu nhiên có mặt tại đó. Amparô, mười sáu tuổi, nước da rám nắng như nước da mẹ cô, và Rêmêđiôt xấp xỉ chín tuổi, một cô bé kháu khỉnh với nước da trắng ngà và đôi mắt xanh. Cả hai đều duyên dáng và có nền nếp. Cũng chớp nhoáng như cha con họ bước vào, trước khi được cha giới thiệu, các cô đã mang ghế cho khách ngồi. Song cả hai cha con đều đứng.
- Tốt lắm? - Hôsê Accađiô Buênđya nói. - Ngài sẽ ở lại đây, nhưng không phải vì ngài đã có bọn lính canh mang súng hỏa mai ấy mà vì lòng kính trọng của dân làng đối với bà nhà và cấc cô gái đây.
Đông Apôlina Môscôtê hoang mang, nhưng Hôsê Accađiô Buênđya không cho ngài có thời gian để đối đáp: "Chúng tôi chỉ yêu cầu ngài hai điều thôi", ông nói: "Trước tiên hãy để cho mỗi người được theo sở thích mình mà quét vôi nhà. Thứ hai là hãy để cho những người lính đi khỏi làng ngay lập tức. Chúng tôi sẽ đảm bảo an ninh cho ngài". Quan thanh tra xòe rộng bàn tay phải, giơ lên:
- Lời hứa danh dự chứ?
- Lời nói của kẻ thù đấy, - Hôsê Accađiô Buênđya nói. Nhưng với giọng cay đắng ông nói rõ:
- Bởi tôi muốn nói rõ để ngài biết: Ngài và tôi sẽ tiếp tục là kẻ thù của nhau.
Ngay buổi chiều ấy, bọn lính đã phải bán xới đi. Mấy ngày sau, Hôsê Accađiô Buênđya đã tìm cho gia đình Quan thanh tra một ngôi nhà. Tất cả đều sống thanh thản trong hoà bình, trừ Aurêlianô. Hình ảnh Rêmêđiôt, cô gái út của Quan thanh tra, mà cứ theo tuổi tác để xét thì cô bé chỉ đáng tuổi con cậu, đã đọng lại trong tâm khảm làm nhức nhối thân xác cậu. Đó là một cảm giác có tính chất cơ học giống như một viên sỏi lẫn trong giày làm nhói đau chân mỗi khi đi.

Chú thích:
(1) Đaghe (Jacques Daguerre, 1787-1851) nhà vật lý người Pháp đã phát mình ra thấu kính và buồng tối. Có công hoàn thiện nghề chụp ảnh. Bởi thế người ta lấy tên ông để đặt cho nghề chụp ảnh (Dnguerretypie).
(2) Sir Walter Raleigb (1552-1618), nhà hàng hải và chính khách người Anh, được Nữ hoàng Isabel Đệ Nhất ủng hộ, đã chinh phục Guayasca năm 1616.
(3) Một thứ nước uống làm từ nước mía và men rượu.
Về Đầu Trang Go down
https://readinglove.forumvi.com
Sponsored content





TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ   TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ Empty

Về Đầu Trang Go down
 
TRĂM NĂM CÔ ĐƠN-GABRIEL GARCIA MARQUEZ
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
BOOK OPEN OUR MIND :: THƯ VIỆN :: KHO TIỂU THUYẾT-
Chuyển đến